CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN
TRONG MỘT SỐ BÀI THƠ CỦA XUÂN QUỲNH
1. Xuân Quỳnh và thơ
1.1. Cuộc đời
Xuân Quỳnh tên thật là
Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10
năm 1942
tại làng La Khê,
xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Đông (nay thuộc quận Hà Đông,
Hà Nội).
Nhà thơ xuất thân trong một gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, ở với bà nội.
Bà được xem là nữ thi sĩ nổi tiếng với nhiều bài thơ tình được nhiều người biết
đến như Thuyền và Biển, Sóng, Thơ tình cuối mùa thu...Xuân Quỳnh mất ngày 29 tháng 8
năm 1988
trong một tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương (nay là
thành phố), tỉnh Hải Dương cùng với chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới
13 tuổi. Xuân Quỳnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật
năm 2001.
Tác phẩm
- Tơ tằm - chồi biếc
(thơ, in chung)
- Hoa dọc chiến hào (thơ,
in chung)
- Gió Lào, cát trắng
(thơ, 1974)
- Lời ru trên mặt đất
(thơ, 1978)
- Sân ga chiều em đi
(thơ, 1984)
- Tự hát (thơ, 1984)
- Hoa cỏ may (thơ, 1989)
- Thơ Xuân Quỳnh (1992 ,
1994)
- Thơ tình Xuân Quỳnh -
Lưu Quang Vũ (1994)
- Cây trong phố - Chờ
trăng (thơ, in chung)
- Bầu trời trong quả
trứng (thơ thiếu nhi, 1982)
- Truyện Lưu Nguyễn
(truyện thơ, 1985)
- Mùa xuân trên cánh đồng
(truyện thiếu nhi - 1981)
- Bến tàu trong thành phố
(truyện thiếu nhi, 1984)
- Vẫn có ông trăng khác
(truyện thiếu nhi, 1986)
- Tuyển tập truyện thiếu
nhi (1995).
1.2. Đặc điểm nghệ thuật
Thơ Xuân Quỳnh giàu cảm
xúc với những cung bậc khác nhau như chính tính cách luôn hết mình của Xuân
Quỳnh. Ngay từ những tập thơ đầu tay, hồn thơ Xuân Quỳnh đã thể hiện được sự
phong phú, hồn nhiên, tươi mới, sôi nổi và đầy khát vọng. Những bài thơ khi
hạnh phúc đắm say, lúc đau khổ, suy tư của nhà thơ luôn gần gũi vì được viết
với sự đằm thắm của một người phụ nữ vừa làm thơ vừa làm vợ, làm mẹ. Nhiều bài
thơ của Xuân Quỳnh đã trở nên nổi tiếng như Thuyền và biển, Sóng,
Hoa cỏ may, Tự hát, Nói cùng anh... Các bài thơ Sóng, Truyện cổ tích về loài người
được đưa vào sách giáo khoa phổ thông. Nhạc sỹ Phan Huỳnh Điểu, đã phổ nhạc rất thành công các
bài thơ: Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu của Xuân Quỳnh.
2. Chủ nghĩa nhân văn
Các nhà khoa học nhìn
nhận chủ nghĩa nhân văn theo hai vấn đề:
Ở cấp độ thế giới quan:
Các nhà nghiên cứu cho rằng đó là những tư tưởng, quan điểm, tình cảm trong các
giá trị người (phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp, sự hài hòa tình cảm). Chủ nghĩa nhân
văn nhìn con người không đơn thuần ở đạo đức mà bao hàm cách đánh giá con
người.
Ở cấp độ lịch sử: chủ
nghĩa nhân văn được nhìn nhận như một trào lưu văn hóa tư tưởng xuất phát từ
trào lưu văn học phương Tây thời Phục Hưng.
Họ nhìn nhận chủ nghĩa
nhân văn là vì con người (giải phóng con người, ngợi ca con người, đặc biệt đề
cao những khát vọng cao đẹp và niềm tin vào sức mạnh toàn năng của con người).
Ở đây nhấn mạnh vai trò toàn năng của con người. Trong khi đó chủ nghĩa nhân
đạo hướng tới niềm cảm thông con người (nhấn mạnh sức mạnh toàn năng của con
người)
Theo Từ điển văn học (Bộ
mới) thì chủ nghĩa nhân văn là một hệ thống quan điểm triết học – đạo đức,
chính trị - xã hội coi con người và đời sống hiện thực, trần thế của nó, một
đời sống văn minh, hạnh phúc, hữu ái, là mục đích cao nhất. Nó giải thích những
nguyên nhân đã gây ra cho nhân loại cảnh bất hạnh, tội lỗi, đồi trụy… và đề ra
phương pháp giải quyết trước.
Từ điển thuật ngữ văn học
(Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi) cho rằng chủ nghĩa nhân văn
(humanism) là chủ nghĩa nhân đạo và nhìn nhận nó ở hai cấp độ: thế giới quan và
lịch sử và khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng là một bước
ngoặt quan trọng trong quá trình giải phóng tinh thần và tự ý thức của nhân
loại.
Vôngin: chủ nghĩa nhân
văn là toàn bộ những quan điểm đạo đức, chính trị bắt nguồn từ thực tế của đời
sống con người với những nhu cầu khả năng trần thế và những nhu cầu khả năng ấy
phải được phát triển đầy đủ, phải được thõa mãn. Từ quan niệm của Vôngin ta
nhận thấy chủ nghĩa nhân văn không chỉ là chính trị, triết học mà nó là nhu
cầu, là khát vọng của con người đáp ứng đến tận cùng yêu cầu của con người là
được “thõa mãn”.
Trên cơ sở các vấn đề, có
thể khái quát mấy điều về chủ nghĩa nhân văn:
Thứ nhất, chủ nghĩa nhân
văn là khái niệm để chỉ một trào lưu triết học văn hóa, văn nghệ mang tính chất
tiến bộ hướng đến việc giải phóng con người, giúp con người tiến bộ thoát khỏi
những đè nén về tinh thần và sự kềm chế con người.
Thứ hai, chủ nghĩa nhân
văn hướng đến con người, xem con người là mục đích cao nhất trong đời sống và
sự phát triển của xã hội (mục đích là vì con người)
Thứ ba, phân biệt khái
niệm chủ nghĩa nhân văn – chủ nghĩa nhân đạo – chủ nghĩa nhân bản: Trong Từ
điển thuật ngữ văn học người ta quan niệm chủ nghĩa nhân văn là chủ nghĩa nhân
đạo, xem chủ nghĩa nhân đạo như là chủ nghĩa nhân văn. Hoàng Ngọc Hiến khi
trình bày chủ nghĩa nhân đạo thì thấy chủ nghĩa nhân đạo như chủ nghĩa nhân văn
bởi vì giữa chủ nghĩa nhân đạo và chủ nghĩa nhân văn có những phần chung. Thế
nhưng giữa hai khái niệm này có những điểm khác
Nói đến khái niệm chủ
nghĩa nhân đạo thì ta hiểu rằng khái niệm này thiên về phương diện đạo đức,
luân lý, tình thương đối với con người; đau khổ, xúc động, cảm thông, xót xa
với nỗi bất hạnh của con người.
Theo T.S Nguyễn Lâm Điền
thì chủ nghĩa nhân bản nhìn con người ở góc độ triết học và tôn giáo, xem con
người không phải là thần thánh và đối xử với con người một cách khoan dung độ
lượng
Chủ nghĩa nhân văn chính
là cách nhìn, cách đánh giá về năng lực của con người. Đó là việc phát huy tối
đa các năng lực đó của con người.
Trong văn học, chủ nghĩa
nhân văn theo quan niệm Macxit nhìn nhận ở 5 điểm sau (5 tiêu chí):
Một là, con người phải là
vị trí trung tâm, phải là bình diện thứ nhất của tác phẩm. Đó là con người cá
nhân, con người ở địa vị một người.
Hai là, văn học phải quan
tâm đến khát vọng, ước mơ, lý tưởng, nỗi niềm riêng tư, những bi kịch, những
lỗi lầm của con người nói cách khác quan tâm đến toàn bộ thế giới bên trong của
con người
Ba là, văn học phải bảo
vệ quyền sống và bảo vệ môi trường tự do của con người. Quan tâm đến sự hình
thành hoàn cảnh đến năng lực của con người có thể phát triển.
Bốn là, văn học phải phản
ánh cái xấu, cái bất nhân, vạch trần bản chất của những thế lực ngăn cản, kìm
hãm sự phát triển của con người.
Năm là, một tác phẩm có
tính nhân văn thì tất yếu phải có giá trị thẫm mĩ. Chủ nghĩa nhân văn đích thực
không tách rời cái đẹp của nghệ thuật. Tóm lại, chủ nghĩa nhân văn trong quan
niệm Macxit đó là hội tụ những giá trị toàn năng của con người và được phản ánh ở một trình độ tư tưởng thẫm
mĩ của thời đại.
3. Biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn qua một số bài thơ Xuân
Quỳnh
3.1. Thể hiện tình yêu thương, lòng nhân ái, cái đẹp trong
tâm hồn của một con người sống có nghĩa có tình
Không rõ xuất phát từ
những đắng cay bất hạnh nơi mình hay từ bản chất sâu xa nằm trong tiềm thức mà
Xuân Quỳnh thường hay thương cảm. Chị có trực giác khác thường, có khả năng
biết cảm thông với mọi đối tượng quanh mình. Chị rất dễ giao hòa đồng cảm với
nỗi đau của người khác. Với tấm lòng như thế, chị nhìn đâu cũng thấy xót
thương thậm chí những vật vô tri cũng ra những số phận tâm hồn:
Nỗi buồn riêng trong cây
Chỉ có mình em biết
Suốt đời không ngủ được
Là ngọn gió heo may.
(Anh)
Chị nhìn sự vật cỏ cây,
hoa lá, con người trong sự chảy trôi. Bởi vậy, chị luôn thấy lo âu thương xót
thay cho nó, muốn hết lòng bù đắp, chở che, có khi rưng rưng thương dáng tần
tảo lam lũ của người mẹ quê mùa“ Đau xót bàn chân phèn chua xót kẻ”, cũng có
khi vừa thương vừa tội nghiệp cho mình:
Thương gì nguời đói lang thang
Xin ăn trôi khắp ngả đường ngoài kia
Tình thương chỉ nói bằng lời
Lấy đâu ra gạo cho nguời đủ no
(Bài hát đắp đường)
Bên cạnh những tình cảm
trắc ẩn, tình yêu thương con người, thơ Xuân Quỳnh còn thể hiện cái đẹp của một
người sống có nghĩa, có tình. Trong mỗi chúng ta, ai cũng có một người mẹ
để yêu thương bởi lẽ mẹ là người đã cho ta vóc dáng, hình hài. Xuân
Quỳnh cũng thế, trong những sáng tác của mình, chị có những trang thơ
chủ đề viết về người mẹ rất hay nhưng người đọc ấn
tượng và xúc động nhất khi chị viết về người mẹ chồng của mình.
Bài thơ Mẹ của anh, chị đã bộc lộ một cách nhân văn nhất mối quan hệ mới trong
thời đại chúng ta. Những câu thơ của chị đầy cảm thông và ân tình:
Phải đâu mẹ của riêng anh,
Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi.
Mẹ tuy không đẻ không nuôi,
Mà em ơn mẹ suốt đời chưa xong.
Mẹ không ghét bỏ em đâu,
Yêu anh em đã là dâu trong nhà.
Ở Xuân Quỳnh không còn
ranh giới giữa mẹ chồng – nàng dâu. Tình
cảm của chị hết sức chân thật, đôn hậu, đầy tình người. Chị yêu thương
chồng và yêu thương luôn cả người mẹ đã cho mình một người để yêu:
Chắt chiu từ những ngày xưa,
Mẹ sinh anh để bây giờ cho em.
Tấm lòng thơm thảo và đằm thắm của Xuân Quỳnh hiển hiện thật dung dị,
chất chứa biết bao hoài niệm, những vần thơ khi đọc lên mới thấy thật tha
thiết, giàu tính nhân văn, giàu tình hữu ái của con người với con người. Tình
yêu được nâng cánh thăng hoa, hòa điệu trong từng cung bậc yêu thương, sẻ chia
và nhân ái.
Bên cạnh tấm lòng đôn hậu, chân thành đối với mẹ chồng, chị còn có
tấm lòng đáng quý nữa là đối với con riêng của chồng, Đọc bài Thơ xuân cho
con (Tặng Lưu Minh Vũ), người đọc không thể ngờ đựợc chị có những vần thơ
chứa chan tình mẫu tử như thế! Không còn ranh giới giữa mẹ ghẻ - con chồng”
Mấy đời bánh đúc có xương/ Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng” như cách nghĩ của người đời nữa:
Tết làm cho hương thơm
Con làm bằng yêu thương
Của cha và của mẹ
Của bà và của ông
Của má nữa biết không
Còn làm bằng tất cả.
Nếu người đọc tinh ý hơn
sẽ thấy qua cách cắt nghĩa cho con, Xuân Quỳnh đã đưa hình ảnh người mẹ ruột
của con chồng vào trong đời sống tình cảm của trẻ thì mới thấy hết
được vẻ đẹp cao thượng ở nơi chị. Có lẽ chỉ riêng ở Xuân Quỳnh mới có cách nghĩ, cách nhìn yêu thương và độ
lượng đến thế!
3.2. Thế giới nội tâm của con người được phản ánh một cách
sâu sắc
ò Tiếng nói của một trái tim đam mê rực cháy
mãnh liệt, khát khao được sống và yêu hết mình
Nhiều người không khỏi day dứt
khi nghe Xuân Quỳnh kể về mình:
Tuổi thơ tôi lạc lõng giữa đời
Như cánh chim bơ vơ mất tổ.
(Tiếng mẹ)
Chính vì vậy mà ở chi luôn cháy
bỏng ước mơ, luôn sống với những giây phút tương lai nhiều hơn, chị
mang trong mình những hăm hở rạo rực. Xuân Quỳnh đón nhận cuộc đời
bằng tất cả nhiệt tình say mê của tuổi trẻ. Chị ngợi ca cuộc
sống,đem nhịp thở, ấm áp của thơ vào cuộc đời, vào không gian bao la:
Ta còn mơ ước
Thành nhà thơ ca ngợi cuộc đời
Những vần thơ cùng du hành vũ trụ
Sưởi ấm vầng trăng lạnh niềm vui
Đâu chỉ lên trăng thơ ta còn bay thấp
Theo những con tàu cập bến các vì sao
Như lòng ta chẳng bao giờ nguôi khát vọng
Biết bay rồi ta lại muốn bay cao.
(Khát vọng)
Khát vọng tình yêu trong trái tim
nhà thơ sâu sắc và mãnh liệt. Cái thời Xuân Quỳnh cách đây ba mươi năm
có được những câu thơ viết về tình yêu da diết cháy bỏng thật hiếm,
nhất là với các nhà thơ nữ có ai mạnh dạn nói được như chị:
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ.
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố.
(Thuyền và biển)
Xuân Quỳnh mượn lời của thiên
nhiên nhiên để nói về tình yêu của mình.Một tình yêu đạt đến độ say
đắm, nồng nàn, say đắm, đam mê dữ dội.Chị luôn khao khát một tình yêu
đích thực, tình yêu bất chấp thời gian, không gian để đến tận cùng
hạnh phúc:
Tôi đã đi đến tận cùng xứ sở
Đến tận cùng đau đớn, đến tình yêu.
Người đọc thơ chị ít hay nhiều
không thể không chú ý đến một danh từ rất mực bình thường gần gũi,
trở thành một hiện tượng khó quên, thâm chí đặc trưng của thơ tình
Xuân Quỳnh là trái tim. Đó là một trái tim thiết thực, đã khước từ,
chối bỏ mọi biến hóa dẫu có thành vàng,
thành mặt trời. Trái tim ấy chỉ
có một điều ước trở về với chính nó:
Em trở về đúng nghĩa trái
tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi.
(Tự hát)
Bao giờ trong chị cũng là sự
khẳng định một tình yêu nồng nhiệt, mê say, sôi nổi nhiệt tình :” Và
cả anh, anh yêu của riêng em/ Em yêu anh, yêu anh như điên”. Chị đã thành
công khi miêu tả tình yêu cô gái như con sóng, như biển cả mênh mông, bao
la.Một tình yêu cụ thể, ráo riết, thủy chung, trọn vẹn, tròn đầy.
Chị khát khao được sống mãi trong tình yêu thiêng liêng ấy:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
(Sóng)
Nét tượng trưng trong thơ tình yêu
của Xuân Quỳnh là sống cho cái tốt, cái cao quý. Khi yêu, tâm hồn chị
mềm mại, tinh tế,muốn sống tốt hơn, nhân bản hơn, tin yêu hơn vào cuộc
đời, cây cỏ, quê hương:
Đất ở đây gắn với con người
Biết yêu thương và hiểu về Tổ quốc
Nhưng ở đây chưa bao giờ biết rét
Chỉ mình em nghe rét nhớ về anh.
(Nghe rét đến nhớ về Hà Nội)
ò Khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc trong
đời thường
Nơi dồn tụ mọi yêu
thương ở chị, nơi chị trút mọi nỗi niềm riêng chung là ở nơi người
chị yêu- người chồng.Bàn tay trong tình yêu của chị là của con người
yêu thương, nhân hậu,dịu dàng, bàn tay xây dựng và vun đắp cho mái ấm
gia đình:
Trời mưa lạnh tay em khép cửa
Em phơi mền và vá áo cho anh
Tay cắm hoa tay để treo tranh
Tay thắp sáng ngọn đèn đêm anh đọc
Năm tháng đi quamái đầu cực nhọc
Em nhẹ nhàng xoa dịu nỗi đau
Và góp nhặt tình yêu từ mọi ngả.
(Bàn tay em)
Nói đến tình yêu là
nói đến cái đầm ấm trong sự sống hàng ngày, cụ thể bình thường
nhưng đã làm nên hạnh phúc:
Căn phòng con riêng của chúng mình
Nước trong phích, hoa trên bình gốm cũ
Sách trên giá và thơ trong trí nhớ
Viết ra rồi em đọc anh nghe.
(Nghe rét đến nhớ về Hà Nội)
Có những câu thơ như lời nói thường ngày
mà gợi lên những ấn tượng bởi
tình cảm dịu dàng, trìu mến:
Sao không cài khuy áo lại anh
Trời lạnh đấy, hôm nay trời trở rét.
Trái tim nồng nhiệt
của người phụ nữ suốt đời khao khát tình yêu rất biết nâng niu quý
trọng niềm hạnh phúc đã có thật trong đời:
Chỉ riêng điều được sống cùng nhau
Niềm sung sướng nằm trong lồng ngực
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim đập chẳng vì anh.
(Chỉ có sóng và em)
Mọi tâm tư tình cảm
chị đều dành cho tổ ấm đơn sơ và khiêm nhường ấy. Mọi va chạm nhỏ
nhặt cũng khiến chị áy náy không yên. Chị vị tha và tự bộc bạch
nhận lỗi:
Anh yêu ơi hãy tha lỗi cho em
Nếu đôi lúc giận hờn anh vô cớ
Những bực dọc trong ngày vất vả
Làm anh buồn mà em có vui đâu.
(Chỉ có sóng và em)
Thơ hay làm người ta
không thấy câu chữ chỉ còn cảm thấy tình người.Ta có thể nói như
thế về thơ Xuân Quỳnh –đóa Quỳnh mùa Xuân đã hát lên khúc ca từ cho
tình yêu, khát vọng, cho cuộc sống tốt đẹp và nhân ái hơn mà chính chị
đã nói:
Đó Tình yêu, em muốn nói cùng anh
Nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng
Lòng tốt để duy trì sự sống
Cho con người thực sự Người hơn.
(Nói cùng anh)
ò Cảm nhận về sự nhỏ nhoi trong dòng người vô
tận
Cảm nhận mình chỉ là một
phần tử nhỏ nhoi trong dòng người vô tận và tự nhủ sẽ có lúc hết phiên để
nhường cuộc đời đẹp đẽ này cho những cặp tình yêu khác
Này anh, em biết
Rồi sẽ có ngày
Dưới hàng cây đây
Ta không còn bước
Như người lính gác
Đã hết phiên mình.
(Chồi biếc).
Cảm giác ấy càng nẩy nở thường trực ở
thơ Xuân Quỳnh sau 1975. Bài Hoa cúc láy đi láy lại nỗi đau xót
âm thầm khi tự thấy mình không còn được như hôm qua:
- Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế
Chỉ em là khác với em xưa …
- Bao ngày tháng đi về trên mái tóc
Chỉ em là khác với em thôi
(Hoa cúc)
Cũng từ đây trong thơ đã
len vào những giai điệu khác:
- Đường tít tắp mà ngày đang xế bóng
Mệt mỏi chăng hỡi người bạn đồng hành?
(Hoa cúc)
Sự mệt mỏi ấy trước tiên
là đến từ phía cuộc sống, những lo toan chợ búa gia đình chồng con mà bất cứ ai
cũng có thể cảm nhận được
ò Thơ thời chiến của chị hướng về nội cảm mang tư duy
triết lí. Trong những thử
thách gay go ác liệt của chiến tranh, mặt đối mặt với cái chết, mọi toan tính, lo âu vụn vặt của đời thường
được đẩy lùi. Cái giới hạn tận cùng của đời sống ấy không làm cho con người
khiếp sợ mà ngược lại họ đã sống với
nhau rất tình người :
Chính ở đây mới sâu lòng căm ghét
Chính ở đây mới hiểu hết nghĩa yêu thương.
(Viết trên đường hai mươi)
Chiến tranh đã sàng lọc và gạt bỏ
những gì là giả dối, riêng tư. Nó xóa đi những lớp sưong mơ hồ đôi khi bao phủ
lên cuộc đời bình lặng:
Những năm tháng chiến tranh thử thách mỗi người
Ta lọc lại cho ta những gì trong sạch nhất.
(Viết trên đường hai mươi)
3.3. Con người tự ý thức về chính đời
sống và tự nhận thức giá trị của mình
Nữ sĩ Xuân Quỳnh trên con đương đi
tìm hạnh phúc đời thường đã trải qua những năm tháng đau thương, mất mát, cay
đắng, thua thiệt, trăn trở, lo âu với những khát khao, hoài vọng. Từ một cô gái
nhìn cuộc đời, nhìn tình yêu màu hồng, Xuân Quỳnh đã trở thành người đàn bà
từng trải, chị ý thức về chính đời sống và tự nhận thức cái bản ngã riêng của
mình trong cuộc đời. Bài Thơ vui viết về phái yếu là bài thơ nổi tiếng của chị,
cá tính Xuân Quỳnh hầu như kết tinh ở tứ thơ này: hồn hậu, tự nhiên, hóm hỉnh,
duyên dáng mà lại đằm thắm nữ tính:
Những người đàn ông các anh có bao nhiêu điều to lớn
Các anh nghĩ ra bấy nhiêu tàu ngầm, tàu lửa, máy bay
… Mỗi các anh là một nhà chính khách
Các anh quan tâm đến chuyện mất còn của các quốc gia
Còn:
Chúng tôi chỉ là những người đàn bà
Bình thường, không tên tuổi trên trái đất
Họ là những người đàn bà bận rộn lo
toan, cân đong đo đếm từng bữa ăn cho chồng con. Nữ sĩ có một sự cảm nhận sâu
sắc hơn ai hết bởi chị cũng là một phụ nữ của đời thường.Nhưng ở chị
là một người phụ nữ có ý thức về giá
trị của mình để rồi chị khẳng định:
Dẫu là nguyên thủ quốc gia hay là những anh hùng
Là bác học … là ai đi nữa
Vẫn là con một người phụ nữ
Một người đàn bà bình thường không ai biết tên tuổi.
Người đàn bà là người của những gì
bình thường nhất mà cũng vĩ đại, tự
hào nhất khi chính họ là người gieo
trồng, vun đắp cho những mầm sống tương lai, cho đời người, cho dân tộc, cho
lịch sử. Thú vị thật! Ngòi bút của Xuân Quỳnh đã mang tính chuyên luận sắc sảo
về vấn đề ấy:
Anh thân yêu, anh vĩ đại của em
Anh là mặt trời, em chỉ là hột muối
Một chút nắng mặn giữa đại dương vời vợi
Em chỉ là ngọn cỏ dưới chân qua
Loài rong rêu chưa bao giờ biết đến
Là hạt bụi vô tình trên áo
Nhưng nếu sáng nay em không đong được gạo
Chắc chắn buổi chiều anh không có cơm ăn.
Anh có vĩ đại bao nhiêu đi chăng nữa
nhưng anh vẫn cần đến bàn tay đời thừơng của người phụ nữ, không thể thiếu
người đàn bà trong cuộc đời! Cái “tôi” của Xuân Quỳnh khiêm tốn mà rất đỗi tự hào:
Chúng tôi chẳng có tàu ngầm, tên lửa, máy bay
Cũng không có hạt nhân nguyên tử
Chúng tôi chỉ có chậu, có nồi, có lửa
Có tình yêu và có lời ru.
Nhận thức về mình ở Xuân Quỳnh ở khía
cạnh khác là chị dám nhìn thẳng vào sự thật, không tự mê hoặc, ám ảnh mình
bằng quá khứ:
Em biết quên những điều đáng quên
Em biết nhớ những điều em phải nhớ
(Có một thời như thế)
Biết bao lần chị đã thừa nhận với bạn
bè, thơ của chị “đa mang” với cuộc đời nhưng chị đã từng bước đứng vững bằng nội lực bên trong. Chính sự tự ý thức
về bản thân mình nên ở chị luôn có ý
thức về thời gian, về quá khứ, về căn nhà cũ. Thơ chị nói nhiều về thung
lũng xưa, ngày xưa, như xưa, đầm lầy của anh xưa, màu trắng tự ngàn xưa… như
những chứng tích một thời. Nhưng chị cũng ý thức và bình tâm đón đợi những
gì đang tới:
Năm tháng qua tôi đã đổi thay nhiều
Tôi đã qua bao thác ghềnh đá núi
Qua thời gian, tóc thoáng sợi màu mưa
Vĩnh biệt tuổi thơ và quá khứ
Mái tóc xanh bắt đầu pha sợi bạc
Nỗi vui buồn cũng khác những ngày xưa.
Vâng, tự ý thức về mình, về chính đời
sống của mình là một biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn. Chính Xuân Quỳnh đã
từng tâm sự với người bạn thân Vương Trí Nhàn :” Nói được niềm vui nỗi
khổ của chính mình, tôi cảm thấy có cái sung sướng không mấy ai có! Như
người khác không đựơc yêu, mà mình đựơc yêu. Như người khác chỉ biết im lặng mà
phải biết nói, và nói lên được thành tiếng”. Chính những lúc ấy lại là cội
nguồn của sáng tạo chân thành, tha thiết nhất đã đi vào trong thơ chị.
3.4. Giá trị thẩm mĩ trong thơ Xuân Quỳnh
ò Thứ nhất là việc sáng tạo những hình ảnh đẹp, độc đáo
Cả bài thơ Sóng, nếu kể
đến nhan đề, thì tác giả đã mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ như tâm
tình xôn xao. Sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu của sóng, cũng như giọng
điệu tâm tình, nhịp điệu của bài thơ. Sóng vỗ trên đại dương mênh mông cũng
chính là con sóng tình yêu vỗ dạt dào trong lòng người con gái. Có thể nói
“sóng” là một trong những sáng tạo nghệ thuật độc đáo trong thơ Xuân Quỳnh. Bài
thơ Con yêu mẹ cũng là một ví dụ minh hoạ về sự sáng tạo độc đáo trong thơ Xuân
Quỳnh. "Con yêu mẹ bằng con dế" mới chính là tình cảm thực của con
yêu mẹ, bởi vì chỉ lúc này con mới yêu bằng sự so sánh trẻ con. Yêu bằng ông
trời, bằng Hà Nội, bằng trường học đều là sự vay mượn, sự sao chép cách biểu
hiện tình cảm lấy phạm trù độ lớn, độ đông làm chuẩn. Còn yêu bằng con dế là
tình cảm thuộc phạm trù độ thân, độ gần trong cách hình dung tuổi nhỏ. Con dế -
biểu vật của tình con yêu mẹ - cao hơn cả ông trời, rộng hơn cả Hà Nội, đông
hơn cả trường học, bởi nó "luôn trong bao diêm con đây, mở ra là con thấy
ngay". Và như vậy "con dế" của Xuân Quỳnh đã chạm đến được cái
lớn của những thi hào xưa nay thường không chịu gò ép tình cảm của mình trong
cái khuôn tư duy quen thuộc từ đất lên trời, mà bứt phá tự do từ trời trở về
đất (Shakespeare trong một bài sonet, Pablo Neruda đã ví nàng Matin với bùn
đất, lau sậy...). Con yêu mẹ ấm áp tình mẹ con, sâu sắc chất nhân văn là vì
thế.
Thơ tình cuối mùa thu là
bài thơ tình yêu trên nền cảnh mùa thu buồn lãng mạn:
Cuối trời mây trắng bay
Lá vàng thưa thớt quá
Phải chăng lá về rừng
Mùa thu đi cùng lá
Mùa thu ra biển cả
Theo dòng nước mênh mang
Mùa thu và hoa cúc
(Thơ tình cuối mùa thu)
Mây trắng, trời xanh, lá
vàng và hoa cúc, những hình ảnh mùa thu đã tạo nền cho những rung động tình
cảm. Thơ Xuân Quỳnh ngoài sự nhẹ nhàng, sâu lắng của cảm xúc còn có giá trị
nghệ thuật ở việc sáng tạo những hình ảnh đẹp giàu tính thẫm mĩ. Cái đẹp của
những hình ảnh trong thơ Xuân Quỳnh không lộng lẫy như trong thơ Thế Lữ, Xuân
Diệu; nó bình dị, gần gũi mà không kém phần lãng mạn, say đắm.
Hình ảnh tương phản tượng
trưng cũng là một trong những sáng tạo độc đáo trong thơ Xuân Quỳnh. Đó là
những khát khao, bỏng cháy trong tình yêu tương phản với những dự cảm lo âu đời
thường. Tự hát dường như là một bài thơ "điển hình" cho chất phụ nữ
trong thơ Xuân Quỳnh: Dữ dội mà dịu êm - Ồn ào mà lặng lẽ - một Xuân Quỳnh sôi
nổi, hổn hển nhựa sống, cũng là một Xuân Quỳnh âu lo, bất thường. Ðọc bài thơ,
người ta bắt gặp ở đó một sự đánh đổi, phủ nhận cái vĩnh cửu của vũ trụ để
khẳng định cái vĩnh cửu của tình yêu. Tình yêu chân chính là mãi mãi. Ðó là cái
Xuân Quỳnh khác với truyền thống.
Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng
Em cũng không mong nó giống mặt trời
(Tự hát)
Xuân Quỳnh không vươn lên
tới vũ trụ để chế ngự tình yêu, Xuân Quỳnh "chế ngự" tình yêu bằng
chính sự tận tuỵ của mình. Bởi với chị, tình yêu phải là sự thấu hiểu:
Em trở về đúng nghĩa trái tim
em
Biết làm sống những hồng cầu đã chết
Biết xúc động qua nhiều nhận thức
Biết yêu anh và biết được anh yêu
(Tự hát)
Không phải không có lúc
Xuân Quỳnh rơi vào hoảng loạn:
Em lạc giữa sâu thẳm rừng anh...
Em lo âu trước xa tắp đường anh...
(Tự hát)
Bởi vì tâm hồn con người
là một bí ẩn, nhưng chị vẫn hát. Bài thơ chính là cuộc tìm đường đi đến tình
yêu đích thực. Xuân Quỳnh so sánh với vũ trụ, rồi Xuân Quỳnh lại rơi trong
những bất ổn của tâm hồn, để trở về với mình trong nóng hổi một niềm tin, một
sự sống, một tin tưởng, ý thức vào sự bất diệt của tình yêụ. "Tự hát"
là hát về mình nhưng thực chất là hát về tình yêu của muôn người trong cuộc đờị
ấy là lời của trái tim, lời của nồng saỵ
Ðọc một bài thơ, ta gặp một con người. Ðó là một Xuân Quỳnh suốt đời tìm
kiếm, nó thể hiện trong sự vận động của từ ngữ, của cấu tự. Bài thơ sử dụng rất
nhiều động từ chỉ sự nhận thức, cấu tứ vận động theo bước chân kiếm tìm chân lý
của người thơ, đi từ mênh mông cuộc đời, từ giá trị của vũ trụ, đến cái tôi -
giá trị của chính mình.
Bài thơ triết lý mà không
khô khan, mạnh mẽ mà không xơ cứng bởi vì trong đó còn chứa rất nhiều tình, rất
nhiều chất nữ tính. Bằng nét riêng của mình, Xuân Quỳnh đã lặng lẽ làm một cuộc
biến đổi cuộc sống, biến đổi nhận thức trong tình yêu... Thơ ấy làm cho người
ta tin hơn cuộc sống... chất nhân văn trong thơ Xuân Quỳnh chính là ở đó.
ò Thứ hai là giọng điệu thơ: chân thành, hồn nhiên, đầy dung dị
Theo Từ điển thuật ngữ
văn học thì giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng của nhà văn,
nhà thơ đối với hiện tượng được miêu tả. Giọng điệu có vai trò rất lớn trong
việc tạo nên phong cách nhà văn, nhà thơ. Đọc thơ Xuân Quỳnh, người đọc có thể
cảm nhận một cách sâu sắc một hồn thơ giàu nữ tính với giọng điệu vừa chân
thành hồn nhiên, vừa mãnh liệt tha thiết mà cũng đầy dung dị trong cảm nhận về
tình yêu, về cuộc sống, gia đình…
Truyện cổ tích về loài người là cái nhìn đầy
tính nhân văn của nhà thơ về sự hình thành thế giới. Người ta kể chuyện cổ tích
bằng cái nhìn ước mơ bay bổng, còn Xuân Quỳnh lại kể bằng cái nhìn hồn nhiên
theo “tư duy ngược” của trẻ con: Trẻ con sinh ra trước nhất! và để thõa mãn
những yêu cầu của trẻ mà thế giới được hình thành. Thể thơ năm chữ có tác dụng
tích cực trong việc thể hiện giọng điệu và nội dung bài thơ
Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có…
Mắt trẻ con sáng lắm
Nhưng chưa thấy gì đâu
Mặt trời mới nhô cao
Cho trẻ con nhìn rõ
(Truyện cổ tích về loài người)
Trong tình yêu, giọng
điệu thơ Xuân Quỳnh thể hiện vừa đằm thắm dịu dàng, vừa tha thiết mãnh liệt và
có lúc nó dâng tràn thành những con sóng, có lúc nó dào dạt suy tư, không có
lúc nó vật vã những trăn trở… nó không say chất men như thơ tình Thế Lữ, thơ
tình Xuân Diệu mà nó là chất dẫn vào thẳng con tim người đọc người nghe bởi sự
chân thành, đằm thắm ngọt ngào. Cái đằm thắm ngọt ngào trong thơ chị biểu hiện
trước hết ở từ xưng hô anh em.
- Em sẽ kể anh nghe
Chuyện con thuyền và biển
(Thuyền và biển)
- Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại…
Kìa bao người yêu mới
Đi qua vùng heo may…
(Thơ tình cuối mùa thu)
Và trong cách “thú nhận” tình yêu:
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
(Sóng)
4. Kết luận (Những vấn đề còn băn khoăn cần trao đổi)
4.1 Thơ Xuân Quỳnh không
hẳn mãnh liệt như Xuân Diệu mà nhẹ nhàng và tự nhiên như cảm xúc yêu thương
bình thường của bao cô gái trẻ . "Người đàn bà hát" , Xuân Quỳnh đúng
là như vậy . Tất cả những suy nghĩ , tâm tư của một người đàn bà đời thường
được chuyển vào trong thơ Xuân Quỳnh chân tình và bình dị ... nhưng lại được
đưa lên cao với một trái tim yêu thắm thiết và say mê . Ẩn trong những lời thơ
mộc mạc , những hình ảnh giản dị toát lên cái mạnh mẽ và sâu sắc của tình yêu
của người đàn bà . Cái "đời thường" của mỗi con người "ai chẳng
có" , đơn thuần như nhịp đập của mỗi con tim "có đập , có ngừng"
nhưng khác ở chỗ : kể cả khi không cảm nhận được cuộc đời thì con tim ấy vẫn
đập nhịp đập của tình yêu. Nhẹ nhàng mà sâu sắc , tự nhiên mà thắm nồng , bình dị
mà mãnh liệt, đó là thơ tình Xuân Quỳnh.
So với nhiều nhà thơ nữ
cùng thời thì trên đại thể thơ Xuân Quỳnh vẫn giữ được cái duyên riêng, và có
được cái hơi trẻ trung, tươi tắn. Chẳng những thơ bầu bạn với Xuân Quỳnh, thơ
còn nâng cao con người nhà thơ lên. Qua thơ, người ta bắt gặp một Xuân Quỳnh
hào phóng, nồng nhiệt, tha thiết với cuộc sống.(Vương Trí Nhàn – Cây bút, đời
người – Xuân Quỳnh cuộc đời để lại trong thơ)
4.2 Tuy nhiên cũng từ đây
cách suy nghĩ của Xuân Quỳnh có một khía cạnh mà theo Vương Trí Nhàn coi như
một nhược điểm, ấy là chủ quan, chủ quan đến mức quá tự tin. Biển quen theo
những quy luật của mình, một câu thơ như vậy buột ra trong một bài thơ viết về
biển, và những người có quen biết đều hiểu rằng đó là lúc nhà thơ nói về bản
thân song đều lo lắng hộ: những ngạo nghễ kiêu hãnh kiểu ấy nó có phần phỉnh
nịnh tuổi trẻ nên lại càng khó gạt bỏ.
- Một tình yêu như thế vẫn y nguyên
- Chỉ còn lại một màu hoa rất trắng
- Đất qua rồi những yêu thương
Có chăng lời hát vẫn còn mà thôi
- Thời gian của ta không bao giờ mất
Không gì khác đó chính là
những ảo tưởng. Những ảo tưởng trong thơ nhưng cũng là ảo tưởng trong đời sống.
Những ảo tưởng này vốn không chỉ là của riêng của Xuân Quỳnh mà là của cả một
thời đại lúc bấy giờ.
Em biết quên những chuyện đáng quên
Và biết nhớ những điều em phải nhớ
Người mà làm chủ được
hoàn toàn tình cảm của mình như vậy thì nói như Vương Trí Nhàn “chỉ còn là cái
máy” nhưng rồi ông cũng giải thích “làm sao mà vượt lên khỏi cái chương trình
mà thời đại đã đặt vào mình cho được”.
Tình yêu trong thơ Xuân
Quỳnh dung dị, chân thành, hồn nhiên, tha thiết. Thế nhưng ngay cả trong bài
thơ Sóng, bên cạnh những câu thơ nồng nàn, tha thiết, ở một khía cạnh nào đó là
thứ tình yêu khẩu hiệu:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
4.3 Giữa những tháng ngày
chống Mỹ ác liệt, các tác phẩm văn học phần lớn ra đời lúc bấy giờ phản ánh
không khí đầy mùi “khói súng” ở chiến trường. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn là đặc điểm nghệ thuật nổi bật ở văn học Việt Nam giai đoạn 1945 –
1975. Đặt trong trào lưu chung ấy, thơ Xuân Quỳnh như một tiếng nói “lạ”, những
biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn mà chị biểu hiện vừa có nét chung với văn học
mang khuynh sử thi 1945 – 1975 (vấn đề dân tộc được đặt lên hàng đầu trong cuộc
đấu tranh một mất một còn bảo vệ Tổ quốc chống Mỹ), vừa có những biểu hiện
riêng đi sâu vào các cung bậc tình cảm của con người (khao khát một tình yêu
chân thành, mong muốn một tình cảm thuần hậu thiết tha, …).
Song cũng cần lưu ý rằng
biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn trong thơ Xuân Quỳnh chỉ dừng lại ở sự khao
khát đằm thắm như đã nói, nó không đi quá sâu vào nhục cảm, sự khốn khó, nỗi
đau của cá nhân con người. Những góc độ đời tư, những cách nhìn đa chiều của
cuộc sống phải đợi đến văn học Việt Nam những năm 1980 về sau mới được bộc lộ
một cách rõ nét, đầy đủ. Thơ Xuân Quỳnh sau 1975 lại tiếp tục mạch thơ của
chính chị trước 1975. Nó vẫn hồn hậu tha thiết và chân thành (Bao giờ ngâu nở
hoa; Thơ viết cho mình và những người con gái khác; Con yêu mẹ;…). Nó không có
sự cách tân táo bạo như kiểu Ý Nhi, Thanh Thảo, Vi Thuỳ Linh, …
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét