DÀN Ý TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ (CHINH PHỤ NGÂM)
1. Mở bài:
- Tác phẩm Chinh
phụ ngâm của Đặng Trần Côn viết bằng chữ Hán, được sáng tác vào khoảng nửa
đầu thế kỉ XVIII, khi xã hội phong kiến nước ta đang lâm vào tình trạng rối
ren, khủng hoảng. Nội chiến xảy ra liên miên. Nông dân nổi dậy khắp nơi chống
lại triều đình. Cảnh sinh li tử biệt, đau thương tang tóc xảy ra hằng ngày...
- Chinh phụ ngâm của Đặng Trần cỏn ra đời đã nhận được sự đổng cảm
rộng rả của táng lớp Nho sĩ. Nhiều người dịch tác phầm sang chữ Nôm. Bản dịch
của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm là thành công hơn cả.
- Nội dung Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ căm ghét, lên án chiến
tranh phi nghĩa, đề cao quyển sống cùng khát vọng hạnh phúc của con người. Đoạn
trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ từ câu 193 đến câu 228 miêu tả những
cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khổ trong tâm trạng người
chinh phụ đang khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
Mở bài 1:
Thiên thu ghi tạc tình sông núi
Hạnh phúc muôn đời nghĩa phu thê
Đó là hai câu thơ nói về tình cảm,
sự thủy chung, son sắt trong nghĩa vợ chồng. Khi yêu nhau rồi nên nghĩa vợ chồng
người ta luôn mong muốn được ở gần bên nhau. Nhưng một khi phải chia ly thì người
ở lại sẽ mang nhiều tâm trạng. Và minh chứng sự chia ly đó là tình cảm vợ chồng
trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn. Trong tác phẩm này người vợ
khi phải tiễn chồng ra trận một nơi xa xôi, nguy hiểm, chưa biết đến ngày trở về,
ngoài nỗi nhớ thương chồng thì sự cô đơn, lẻ loi đã bao trùm lên tâm trạng của
người chinh phụ. Tiêu biểu là trong đoạn thơ sau:
Mở bài 2: Thân phận người phụ nữ luôn là đề tài muôn thủơ trong
các tác phẩm văn học Việt Nam. Nếu “Truyện Kiều” củaNguyễn Du là lời
than về số phận bạc mệnh
của Kiều thì “Chinh phụ ngâm” của Đặng trần Côn lại là nỗi sầu của người chinh
phụ khi phải xa chồng trong thời ki chiến tranh loạn lạc.Với bản diễn nôm rất
thành công của Đoàn Thị Điểm “Chinh phụ ngâm ” đã trở thành 1 trong những tác
phẩm tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam.Đọc tác phẩm này, nhất là
đoạn trích “"Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”, chắc chắn không ai có
thể quên được 12 câu đầu của đoạn trích với nghệ thuật "tả cảnh ngụ
tình" vô cùng đặc sắc. Đoạn thơ đã diễn tả nỗi cô đơn buồn tủi trong cảnh
khắc khoải chờ chồng của người chinh phụ một cách sâu sắc.
3.Tám câu đầu:
a. Những hành động của người chinh phụ:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
* Cả ngày dài cô đơn, người chinh phụ dạo
trong hiên vắng, nàng vừa đi vừa thầm đếm bước chân mình, như đếm từng ngày
chồng đi. Trong bước chân tưởng như lặng lẽ của nàng mang nỗi lòng
cuồn cuộn những ưu phiền, lo lắng, bồn chồn cho tính mạng người thân ở nơi
chiến trường kia. Như người cung nữ cô độc đáng thương trong “Cung oán ngâm” của
Nguyễn Gia Thiều: “Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ”, bước chân này khác hẳn
với bước chân nàng Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du: “Xăm xăm băng
lối vừa khuya một mình.” Bước chân của Thúy Kiều hạnh phúc, vui vẻ khi được đi
gặp người yêu, còn bước chân người chinh phụ nặng trĩu tâm tư và thương nhớ,
xót xa.
* Người chinh phụ ngồi bên cửa sổ, hết
buông rèm lại cuốn rèm. Những hành động vô thức ấy lặp đi lặp lại nhiều lần,
nàng chẳng quan tâm mình đang làm gì vì tâm trí, tình cảm đã dồn hết vào nỗi
lo, nhớ nhung dành cho người chồng ở biên ải chưa biết bao giờ trở về.
* Các tính từ “vắng”, “thưa” tạo nên không
gian thưa thớt, trống trải, tô đậm nỗi cô đơn, tủi buồn của người
chinh phụ. Các từ “từng” và “đòi” (nhiều) cũng cho thấy sự lặp lại vô thức
những hành động vô nghĩa của người vợ có chồng đi đánh trận, tháng ngày lẻ loi
của nàng đã dài lê thê.
=> Qua hành động “dạo hiên”, “ngồi”,
cuốn rèm, buông rèm, tâm trạng người chinh phụ với những ngổn ngang lo lắng,
buồn phiền được miêu tả rõ rệt, tấm lòng nàng dành cho chồng khiến người đọc
cảm động.
b. Ngoại cảnh:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
* Qua bức rèm thưa, người chinh phụ ngóng
bóng chim thước. Chim thước (hay chim khách) là loài chim báo tin người đi xa
trở về. Nàng mong chim thước cũng là mong chồng. Nhưng trong thời kỳ chế độ
phong kiến khủng hoảng, xã hội nhiều biến động, chiến tranh liên miên, người
chinh phu ra đi để lại cho vợ bộn bề lo lắng, mòn mỏi nhớ mong. Người chinh phụ
vô vọng nhìn vào hiện thực: nỗi nhớ, trông mong, ước muốn của nàng đều không
được hồi âm.
* Người chinh phụ đối diện với ánh đèn:
Khao khát được yêu thương, được sẻ chia, người chinh phụ ngồi trước ngọn đèn
dầu tự hỏi lòng: “Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?” Câu hỏi tu từ như một
lời than thở, bày tỏ nỗi cô đơn, chán chường, tuyệt vọng khôn cùng.
* Hình ảnh cây đèn còn xuất hiện trong nhiều tác phẩm văn
học trung đại khác. Có câu ca dao “Đèn thương nhớ ai/ Mà đèn không tắt?” cũng
để chỉ nỗi nhớ thương da diết của cô gái với người yêu. Trong “Chuyện người con
gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ cũng lấy hình ảnh ngọn đèn dầu để gợi sự cô đơn
của Vũ Nương khi Trương Sinh đi đánh trận.
* Trong đoạn trích, tác giả lấy hình
tượng ngọn đèn ẩn dụ cho thời gian trôi nhanh, cho sự tàn lụi, héo hon của
kiếp người. Qua hình ảnh cây đèn cháy đỏ khắc khoải, cháy đến tàn bấc dầu, nhà
thơ muốn nói cuộc đời chỉ là kiếp hoa đèn mong manh dang dở. Xót xa tình cảnh
lẻ loi, cuộc hôn nhân dở dang của mình, người chinh phụ thức trắng đêm với ngọn
đèn, không biết san sẻ tâm tư cùng ai. Nhưng cây đèn dầu chỉ là vật vô tri
vô giác, nào thấu được nỗi lòng nàng. Thời gian trôi qua, ngọn đèn cũng chẳng
thức cùng nàng thêm nữa. Trong đêm tối chỉ còn độc một chiếc bóng ngày một
mờ nhạt của người chinh phụ.
* Những tính từ chỉ cảm xúc “bi thiết”,
“buồn rầu”, “thương” cô đọng nỗi buồn, não nề của người chinh phụ:
+ “Bi thiết” là bi thương, thảm thiết, đau
đớn không nói thành lời. Những cảm xúc ấy bị vo tròn, nén chặt vào cõi lòng
người vợ có chồng đi lính, khát khao được thấu hiểu mà không có ai để nàng trút
bầu tâm sự.
+ “Thiết tha” theo nghĩa Hán Việt là cắt,
mài. Nỗi đau nàng chôn giấu, kìm nén lại cứa vào trái tim cô đơn, tủi buồn của
nàng những vết cắt sâu nhức nhối.
-
Câu thơ Hoa đèn kia với bóng người khá
thương:
+
Giọng độc thoại lại chuyển ra giọng kể, thể hiện niềm đồng cảm của tác giả.
+
Hình ảnh “hoa đèn - bóng người”: so
sánh, đồng nhất giữa người và vật, đồng cảm của tác giả với nhân vật trữ tình
=> Nghệ thuật miêu tả tâm trạng bằng
ngoại cảnh và tính từ chỉ cảm xúc của nhà thơ đã thành công khi hình ảnh người
chinh phụ với suy tư rối bời, tâm trạng héo mòn chạm đến trái
tim người đọc. Không chỉ vậy, ta còn thấy được sự đồng cảm sâu sắc ở tác giả và
dịch giả với số phận của người phụ nữ có chồng tham gia chiến tranh phi nghĩa.
4. Tám câu tiếp:
a. Cảnh đêm:
“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”
Không gian vây quanh người chinh phụ được
miêu tả bằng cả âm thanh và hình ảnh.
* Từ láy “eo óc” chỉ tiếng gà
gáy tang tóc, âm thanh ấy thưa thớt, buồn bã gợi không gian rộng lớn,
trống trải, hiu quạnh. Một đêm có “năm trống” (năm canh) thì người chinh phụ
thức trọn năm canh, đối diện với chính mình trong nỗi cô đơn khắc khoải, nghe
tiếng gà gáy lòng nàng càng nặng trĩu sầu đau. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật
lấy động tả tĩnh để khắc họa tình cảnh lẻ loi của người vợ có chồng đi lính.
* Hình ảnh cây hòe trong màn đêm “phất phơ
rủ bóng” cũng gợi lên cảm giác man mác buồn, xót xa. Vây quanh người phụ nữ nhỏ
bé đáng thương và cô độc là những bóng dáng mập mờ lay động, như có như không,
cũng như tin tức về người chồng ngoài biên ải xa xôi và cuộc sống hôn nhân dang
dở. Tất cả đều mờ mịt, khiến nàng hoang mang, lo sợ.
* So sánh với cây hòe trong “Cảnh ngày
hè”: “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.” ta thấy cây hòe của Nguyễn Trãi tươi
tốt, căng tràn sức sống, còn cây hòe của Đặng Trần Côn lại được đặt trong đêm
khuya thanh vắng, thấm đượm nỗi buồn. Từ đó ta thấy được nghệ thuật dùng từ của
tác giả, đó là sự chọn lọc một cách tinh tế từ ngữ để biểu thị cảm xúc, tâm
trạng.
* Người chinh phụ nhìn cây hòe giống như
người phòng khuê bắt gặp cành dương liễu. Người phụ nữ trong “Khuê oán” của
Vương Xương Linh chợt ân hận và xót xa cho hạnh phúc dở dang. Còn người chinh
phụ trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn lại đắm chìm trong lo lắng, suy
tư.
=> Ngóng trông người chinh phu, người
chinh phụ thức trắng đêm, vùi mình vào nỗi cô đơn hiu quạnh trong không gian
lạnh lẽo, hoang vắng. Cả âm thanh và hình ảnh trong đêm khuya khiến nàng càng
tủi thân, chán chường và lo lắng.
b. Người chinh phụ thấm thía bi kịch cuộc đời
mình:
“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
* Người chinh phụ bị bủa vây trong nỗi cô
đơn, cuộc sống của nàng thật tẻ nhạt và nặng nề. Ngày lại ngày, giờ lại giờ,
nàng chỉ biết mòn mỏi nhớ thương, bồn chồn lo lắng. Khoảng thời gian không tình
yêu, không hơi ấm hạnh phúc ẩy đối với nàng mới khó khăn làm sao! Người chinh
phụ nhận thấy thời gian trôi thật chậm chạp, một ngày dài lê thê như một
năm. Câu thơ gợi cho người đọc nỗi nhớ của Kim Trọng với Thúy Kiều trong
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du: “Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại một
ngày dài ghê.” Với nhân vật trữ tình, khi vắng đi người thương, thời gian đi
những bước chậm chạp, uể oải.
* Những ngày tháng lẻ loi dài dằng dặc của
người chinh phụ đong đầy sầu khổ. Những mối lo toan về người chồng đang ở xa
liệu có mạnh khỏe, bình an cùng những thương nhớ, xót xa cho thân phận mình,
cho cuộc sống hôn nhân dở dang của nàng tưởng như không có hồi kết. Quả đúng
“Sầu đong càng lắc càng đầy”, nỗi buồn nhớ trong người chinh phụ tích tụ lại,
bao la hơn không gian, mênh mông hơn thời gian, không thể đong đếm được. “Miền
biển xa” là hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng cho những tâm tư vô hình mà
vô hạn của người phụ nữ có chồng đi lính.
=> Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng và
nghệ thuật so sánh, sử dụng từ ngữ khéo léo, tài tình, tác giả tô đậm tâm trạng
người chinh phụ, từng cung bậc cảm xúc rõ ràng và sâu sắc.
* So sánh với nguyên tác chữ Hán của Đặng
Trần Côn: “Sầu tự hải/ Khắc như niên”, ta thấy dịch giả không chỉ trung thành
với nguyên tác mà còn rất sáng tạo.
c. Người chinh phụ cố vùng thoát khỏi nỗi buồn:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”
* Người chinh phụ muốn thoát khỏi ưu
phiền, bèn đốt hương, nhưng lại không kìm lòng được mà mê man trong quá khứ.
Trong đoạn trích “Thề nguyền” của “Truyện Kiều”, Kim Trọng đốt hương: “Đài sen
nối sáp, lò đào thêm hương” để mùi hương trầm ấm áp làm chứng cho lời nguyện
ước lứa đôi của chàng và Thúy Kiều. Người chinh phụ cũng nhớ tới phút giây hẹn
ước năm nào. Mùi hương đưa nàng trở về quá khứ, tâm hồn nàng lạc đi tìm những
kí ức đẹp đã quá xa vời. Càng tiếc nuối cho quá khứ hạnh phúc, nàng càng xót
xa, thấm thía bi kịch trong thực tại. Người chinh phụ lại chìm đắm trong thất
vọng ê chề. Nàng đau lòng không dám đối mặt với hoàn cảnh trơ trọi, bơ vơ hiện
tại. Việc đốt hương vốn để tìm sự thanh thản trong tâm hồn cuối cùng lại khiến
người phụ nữ đáng thương thêm thống khổ.
* Trong quãng thời gian vắng chồng, người
chinh phụ chẳng buồn đoái hoài đến phấn son hoa lệ: “Vắng chàng điểm phấn trang
hồng với ai?” Nhưng đêm nay, mong muốn xóa tan những nỗi lo, nhớ, nàng soi
gương, thấy đôi mắt chứa chan sầu bi, đôi môi không thể gượng nổi một nụ cười
nhạt. Khoảng thời gian dài trông mong chồng và nỗi đau luôn âm ỉ trong lòng đã
hủy hoại nhan sắc của người phụ nữ đang trong độ tuổi xuân sắc. Nàng khóc cho
tuổi xuân héo tàn, cho dung nhan võ vàng, cho số phận bi đát. Những giọt lệ
không thể giúp nàng lấy lại hạnh phúc, tình yêu và tuổi trẻ.
* Cảm thấy việc đốt hương, soi gương không thể giúp quên đi chuyện buồn, người chinh phụ tìm đến tiếng đàn. Nàng mong tiếng đàn rộn ràng có thể xóa tan âu lo, phiền muộn nhưng ghi gảy đàn, nàng lại nơm nớp lo sợ dây đàn đứt.
+ Sắt cầm: đàn sắt và đàn cầm hòa âm với
nhau, tượng trưng cho cảnh vợ chồng hòa thuận.
+ Dây uyên: Uyên ương là biểu tượng cho
lứa đôi gắn bó, hòa hợp.
+ Phím loan: Chim loan phượng cũng là biểu
tượng cho tình yêu đôi lứa.
=> Tác giả sử dụng loạt hình ảnh mang
tính ước lệ tượng trưng nhằm nói lên nỗi lo khôn nguôi của người chinh phụ về
tình cảm vợ chồng, về người chinh phu đang cách xa ngàn dặm.
* Điệp từ “gượng” cho thấy sự cố gắng
gượng gạo và chán nản ở người chinh phụ, nàng vùng vẫy trong nỗi cô đơn nhưng
lại bị chính nỗi cô đơn bóp chặt. Những thú vui của tầng lớp quý tộc giờ đây lại
không thể đem lại cho nàng niềm vui, hơn thế nữa chúng lại như liều thuốc kích
thích khối u sầu khổ trong lòng nàng. Nàng chỉ mong được sum vầy, nhưng buổi
đoàn tụ trong tưởng tượng của nàng lại quá đỗi xa xỉ trong hoàn cảnh này.
5. Tám câu cuối:
a. Tấm lòng thủy chung của người chinh
phụ:
“Lòng
này gửi gió đông có tiện ? Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.”
* Người chinh phụ không chỉ ao ước được
thấu hiểu, yêu thương mà còn khát khao được bày tỏ tình yêu nhớ với người chồng
ngoài biên ải xa xôi.
+ “Lòng này” là tấm lòng thủy chung đợi
chờ.
+ “Nghìn vàng” ẩn dụ cho lòng thương nhớ,
trân trọng
=> Tấm lòng của người chinh phụ với
người chinh phụ là không thể đong đếm bằng vật chất, tác giả chỉ ước lệ những
tình cảm quý giá ấy như nghìn vàng.
* Người chinh phụ gom những yêu nhớ,
thương xót vào gió đông, nhờ cơn gió mùa xuân ấm áp gửi tâm tư thầm kín của
mình đến Non Yên. “Non yên” trong mong ước của nàng không chỉ là núi Yên Nhiên
trong điển cố, điển tích mà là hình ảnh ước lệ tượng trưng cho nơi biên ải xa cách
ngàn dặm, nơi chiến trường khốc liệt, lãnh lẹo, đặt mạng sống con người lên
đường chỉ mong manh.
* Câu hỏi tu từ “Lòng này gửi gió đông có
tiện?” cho thấy nỗi băn khoăn, lo lắng của người vợ. Sự thực, Non Yên ở đâu,
gió xuân phiêu lãng nơi nào, nàng không hề hay biết. Ao ước cũng chỉ là ao ước,
không có cách nào đưa nàng đến bên chồng, thoát khỏi cảnh “Thiếp trong cánh
cửa, chàng ngoài chân mây.”, nàng chỉ biết ngậm ngùi đắng cay cho thân phận
mình.
b. Nỗi nhớ của người chinh phụ:
“Non Yên dù chẳng tới
miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.”
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.”
* Địa danh Non Yên đã xuất hiện trong câu
thơ trước được lặp lại trong câu sau, tô đậm khoảng cách giữa hai vợ chồng, nỗi
nhớ gửi vào không gian rộng lớn, vô tận càng thêm dày vò, trăn trở.
* Nỗi nhớ của người chinh phụ được so sánh
với hình ảnh “đường lên bằng trời” đi cùng từ láy giàu giá trị gợi hình “thăm
thẳm”, gợi ra độ sâu, độ rộng, độ xa, độ dài của không gian. Nỗi nhớ chồng của
nàng được cụ thể hóa bằng sự bao la, mênh mông của vũ trụ. Tình cảm ấy day dứt,
dai dẳng, khôn nguôi, ngập tràn trong không gian, trải dài trong thời gian.
* Hình ảnh đường lên trời mù mịt, xa xăm, không biết đâu là bến bờ, giống như cái thực tại mơ hồ mà người chinh phụ đang sống, cái bi kịch kéo dài đày đọa tuổi xuân của nàng. Nàng không nhìn thấu được hồi kết của chuỗi ngày liên miên dai dẳng này, như bầu trời kia liệu còn bao la đến đâu nữa.
* Trong ngổn ngang thắc mắc, nàng lại trở
về với bế tắc. Tính từ “đau đáu” gợi nỗi đau nhức nhối, âm ỉ, nỗi nhớ triền
miên khôn nguôi của người chinh phụ, gợi lên cả nỗi lo liệu người chồng đang ở
biên ải có được bình an, sớm về đoàn tụ.
c. Tâm trạng người chinh phụ trong cảnh
sầu:
“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”
* Từ láy “thiết tha” cho thấy nỗi buồn dai
dẳng đeo bám lấy người chinh phụ, từng cô đơn, nhung nhớ như mài cắt vào da
thịt.
* Cảnh vật “cành cây”, “sương”, “mưa” đều
thấm đượm nỗi bi ai, sầu khổ, khiến người phụ nữ nhỏ bé càng thêm cô độc, thiểu
não.
* Bút pháp tả cảnh ngụ tình tiêu biểu
trong văn học trung đại:
+ “Truyện Kiều” – Nguyễn Du: “Cảnh nào
cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
+ “Tự quân chi xuất hĩ” – Trương Cửu Linh:
“Nhớ chàng như mảnh trăng đầy/ Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm.”
+Lời
thơ chuyển sang độc thoại nội tâm, trực tiếp bày tỏ nỗi lòng người chinh phụ với
hình ảnh người chinh phu tràn ngập trong tâm tưởng.
+Hai câu thơ cuối có chức năng chuyển đoạn từ
không gian khuê phòng sang không gian ngoại cảnh ở đoạn sau, diễn tả sự đồng điệu
của ngoại cảnh với lòng người chinh phụ: tiếng côn trùng trong đêm mưa rả rích,
cành cây đẫm sương đêm như cùng hoà điệu với nỗi tha thiết não nề trong lòng
chinh phụ.
=> Tâm trạng của ngừơi chinh phụ được miêu tả ngày
càng sầu thảm, làm cho khung cảnh thêm hoang vắng, quạnh hiu;
6. Tổng kết:
a. Nội dung: Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người
chinh phụ” thể hiện nhiều cung bậc cảm xúc của người phụ nữ có chồng đi lính.
Trong chuỗi ngày dài cô đơn, lẻ loi, nàng lo lắng cho chồng, đau xót cho mình,
thương cuộc hôn nhân dang dở, sợ hãi tương lai mù mịt. Nổi bật xuyên suốt khúc
ngâm là hình ảnh người phụ nữ nhỏ bé, cô độc trong không gian trống vắng, lạnh
lẽo, bị nỗi buồn thương sầu nhớ ăn mòn tâm hồn và sắc đẹp.
b. Giá trị nhân đạo: “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” hay
“Chinh phụ ngâm” đã đề cao khát vọng về tình yêu chân chính, cao đẹp của người;
phê phán chế độ phong kiến trong xã hội cũ với những cuộc chiến tranh phi nghĩa
chia uyên rẽ thúy, hủy hoại hạnh phúc gia đình.
c. Nghệ thuật: Các biện pháp nghệ thuật: điệp ngữ, câu
hỏi tu từ, ẩn dụ; các bút pháp ước lệ tượng trưng, tả cảnh ngụ tình; thêm đó
nghệ thuật sử dụng từ ngữ gợi hình, gợi cảm, hệ thống tính từ chỉ cảm xúc, thể
thơ song thất lục bát giàu âm điệu thiết tha réo rắt.
Bài viết tham khảo
Trong văn học trung đại, để lên án sự
suy tàn của xã hội phong kiến, đồng thời ngợi ca khát khao hạnh phúc của con
người, nhiều thi nhân gửi tâm sự, nỗi bất bình của mình vào các bài thơ, khúc
ngâm. Thời Đường ở Trung Quốc, Vương Xương Linh oán ghét chiến tranh phi nghĩa,
mà viết “Khuê oán”. Thời Lê ở nước ta, Đặng Trần Côn cảm thông
sâu sắc trước số phận những người phụ nữ có chồng đi lính mà làm nên tuyệt
tác “Chinh phụ ngâm”. Đoạn
trích “Tình cảnh lẻ loi
của người chinh phụ“ thuộc tác phẩm trên đã chạm đến trái tim người
đọc khi tái hiện hoàn cảnh cô độc, nỗi nhớ thương da diết của người phụ nữ ước
mơ hạnh phúc đoàn tụ.
“Chinh phụ ngâm” ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII, đầu đời Lê Hiển
Tông, phong trào khởi nghĩa nông dân diễn ra liên miên, triều đình điều
binh lính đi dẹp loạn. Từ đấy nhiều gia đình chịu cảnh chia lìa, kẻ ở người đi,
không hẹn ngày gặp lại. Số phận và bi kịch của những con người nhỏ bé
trong cái xã hội phong kiến đang đứng bên bờ vực thẳm ấy đã lay động trái tim
của Đặng Trần Côn. Trong khúc ngâm viết bằng chữ Hán của ông có 476 câu thơ,
làm theo thể trường đoản cú. Khi Đoàn Thị Điểm dịch sang chữ Nôm đã chuyển tác
phẩm về thể thơ song thất lục bát, dùng âm điệu réo rắt, thiết tha của thể
thơ dân tộc góp phần thể hiện tình cảnh và tâm trạng của người phụ nữ có chồng
đi lính. Sở dĩ Hồng Hà nữ sĩ trung thành với nguyên tác và có nhiều sáng tạo
trong quá trình dịch bởi dịch giả đã ở cùng một hoàn cảnh với nhân vật trữ
tình: sau khi cưới chưa lâu, chồng bà là Nguyễn Kiều phải đi sứ Trung
Quốc, chính vì thế, bà thấu hiểu cảnh sống cô đơn, tẻ nhạt với những buồn lo,
nhung nhớ của người chinh phụ.
Sau khi tiễn chồng ra trận, người chinh
phụ bơ vơ chốn khuê phòng vắng lặng, lạnh lẽo, nỗi khổ tâm của nàng được bộc lộ
qua hành động và ngoại cảnh.
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?”
Người chinh phụ dạo bước trong hiên
vắng, vừa đi vừa thầm đếm bước chân mình, như đếm từng ngày chồng đi. Những
bước chân lặng lẽ của nàng nặng trĩu u sầu, đong đầy thương nhớ, như bước chân
người cung nữ trong “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia
Thiều: “Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ“. Trong những buổi đi
dạo của nàng không còn vẻ ung dung, an nhàn mà thay vào đó là sự ngán ngẩm,
buồn chán – tâm trạng khác hẳn với Thúy Kiều khi bước đi tìm người yêu: “Xăm
xăm băng lối vườn khuya một mình.” Nàng Kiều đi tìm tình quân
trong niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn, còn người chinh phụ vừa đi vừa gặm
nhấm nỗi cô đơn, lo lắng cho sự an nguy của người thân chốn biên ải
xa xôi. Nàng hết dạo hiên, lại ngồi buồn, cuốn rèm, buông rèm. Những hành động
vô nghĩa ấy được lặp đi lặp lại trong vô thức, nàng chẳng còn bận tâm mình đang
làm gì bởi tâm trí nàng giờ dồn hết vào người chồng đang tòng quân. Nghệ thuật
sử dụng từ ngữ “vắng”, “thưa” vẽ ra không gian
trống trải, thưa thớt tình thương yêu, càng tô đậm sự lẻ loi, buồn bã, bồn chồn
của nhân vật trữ tình. Người chinh phụ không chỉ buồn nhớ, lo lắng cho chồng mà
còn trông ngóng tin chàng. Nàng đợi tin lành của chim thước sẽ xoa dịu nỗi bất
an, nhưng chim thước không tới. Nàng lại trỏ bóng đèn, hỏi đèn mà hỏi lòng.
Nàng nhận ra rằng càng hi vọng, mòn mỏi trông chờ nàng càng hụt hẫng, tuyệt
vọng. Khát khao sum vầy đoàn tụ, khát khao hơi ấm gia đình của nàng càng khiến
nàng đau đớn, thất vọng. Câu hỏi tu từ và điệp từ “rèm” lặp
lại ba càng đẩy nàng vào bế tắc, cái bế tắc của xã hội phong kiến suy tàn, của
triều đình loạn lạc khiến niềm tin của con người về tình yêu, hạnh phúc không
còn giá trị. Chao ôi, người chinh phụ mới đáng thương làm sao!
Người chinh phụ hết mong ngày, lại mong đêm,
khi bóng tối cô đơn tịch mịch kéo xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ có thể
làm bạn với bóng đèn.
“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Điệp ngữ bắc cầu “đèn biết
chăng”, “đèn có biết” khiến nỗi buồn đau, thương nhớ của người chinh
phụ thêm da diết, day dứt. Trong tâm trạng đó, nàng đối diện với ngọn đèn dầu,
mong muốn được thấu hiểu, được chia sẻ tâm tư. Hình ảnh cây đèn dầu cũng xuất
hiện trong những tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại khác. Ca dao có
câu “đèn thương nhớ ai/
mà đèn không tắt”, thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của người con gái với
người mình yêu. Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Vũ Nương
cũng lấy ngọn đèn dầu để xóa giải nỗi cô đơn khi Trương Sinh đi lính.
Nhưng đến “Chinh phụ ngâm”,
ý nghĩa biểu tượng của ánh đèn dầu không chỉ dừng lại ở đó. Đặng Trần Côn
mượn cây đèn đang tàn mà ẩn dụ sự trôi đi nhanh chóng của thời
gian, sự tàn lụi, héo hon của kiếp người. Nhà thơ muốn nói: cuộc đời
chỉ là kiếp hoa đèn mong manh dang dở. Chính vì vậy, vật vô tri vô giác là cây
đèn cháy đỏ khắc khoải, cháy đến tàn bấc dầu kia không những không thể đồng cảm
với nỗi đau buồn, tình cảnh cô đơn, lẻ loi người chinh phụ mà càng khiến
nàng vô vọng khôn cùng. Tâm trạng của nhân vật trữ tình được khắc họa bằng
những tính từ chỉ cảm xúc: “bi thiết”, “buồn rầu”, “thương”. “Bi
thiết” được hiểu là bi thương, thảm thiết, từ “thiết” theo
nghĩa Hán Việt còn có nghĩa là cắt, mài. Những suy tư muộn phiền của người
chinh phụ khao khát được bộc lộ, được thấu hiểu, nhưng trong tình cảnh cô độc
vắng tẻ của nàng biết lấy ai để trút bầu tâm sự, nàng chỉ biết dồn nén những
cảm xúc ấy, cảm nhận nỗi đau như thể trái tim bị cứa, mài. Qua việc cảm nhận
tâm sự của người chinh phụ khi đối diện với ngọn đèn, người đọc trầm trồ ngợi
ca tài năng nghệ thuật trong miêu tả tâm trạng của tác giả!
Ngọn đèn tắt, bỏ lại người chinh phụ cô
quạnh trong đêm dài tịch mịch u sầu.
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.”
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.”
Một đêm dài năm canh, người chinh phụ vì
trông ngóng người chinh phu, thức trọn năm canh, nghe tiếng gà gáy mà sợ hãi,
buồn rầu. Cái âm thanh “eo óc” ấy thưa thớt, ghê rợn, tang
tóc, khó chịu, từng tiếng từng tiếng vang lên rõ mồn một, đối lập với sự tĩnh
lặng, trầm lắng trong tâm nàng. Tiếng gà gáy trong đêm gợi ra khoảng không mênh
mông, hiu quạnh, khiến người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trở nên nhỏ bé, đáng thương.
Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đẩy tâm trạng người chinh phụ lên một nấc thang
mới, khiến nó đau đớn hơn, cô độc hơn, dày vò nàng hơn. Không chỉ có tiếng gà
gáy khiến nàng trằn trọc, bóng “hòe phất phơ“ cũng khiến
người chinh phụ suy tư, lo nghĩ. Vây quanh người chinh phụ là những bóng dáng
mập mờ lay động trong đêm, như ẩn như hiện, như có như không. Từ láy gợi
hình “phất phơ“ càng tăng thêm tính mơ hồ, hư ảo của cảnh
vật, của tin tức về người chồng ngoài biên ải, của những buổi đoàn tụ, sum họp
gia đình trong mơ ước ấy, nàng càng mong chờ, càng cảm thấy xa xôi. Hình ảnh
cây hòe trong câu thơ trên gợi nhắc ta về bài thơ “Cảnh ngày hè” của
Nguyễn Trãi: “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”. Cây hòe của Nguyễn
Trãi đẹp, căng tràn nhựa sống, gợi nên sự vui tươi của buổi chiều mùa hạ, khác
hẳn với vẻ buồn bã, u sầu của cây hòe đặt trong đêm khuya thanh vắng trong khúc
ngâm của Đặng Trần Côn. Từ đó ta thấy nghệ thuật dùng từ của tác giả, từ tính
từ “phất phơ“ đến động từ “rủ“, tất cả mang
sắc thái chán chường, ủ rũ.
Trong không gian vắng lặng, thời gian đã
đi qua màn đêm, người chinh phụ ôm nỗi nhung nhớ, thấm thía về bi kịch đời
mình.
“Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Vắng chồng, cuộc sống của người chinh
phụ thật tẻ nhạt, buồn chán và nặng nề với những thương nhớ đong đầy từng khắc,
cô đơn bủa vây từng giờ. Những ngày tháng này, thời gian trôi đi thật chậm
chạp, như muốn gặm nhấm chuỗi ngày sầu bi của nàng. Một ngày không còn được
đo bằng vài canh, mấy khắc, mà được tính đếm bằng cả năm dài “đằng
đẵng”. Từ láy “đằng đẵng” kéo dài thời gian, kéo dài
nỗi buồn và tình cảnh lẻ loi của người phụ nữ có chồng ra trận. Nàng
giờ ở vào hoàn cảnh của Kim Trọng khi thương nhớ Thúy Kiều: “Sầu đong
càng lắc càng đầy/ Ba
thu dọn lại một ngày dài ghê!” Trong những ngày tháng khó khăn này,
người chinh phụ ngẫm về cuộc hôn nhân dang dở, về cuộc đời không được
hưởng hạnh phúc trọn vẹn, khiến nàng đã sầu lại càng sầu thêm. Quả đúng
là “sầu đong càng lắc càng đầy”, nỗi buồn của người chinh
phụ càng triền miên, không có hồi kết. Tác giả đã so sánh tâm tư của nàng
với hình ảnh ước lệ “miền biển xa”, những lo lắng, buồn thương,
đau xót của người chinh phụ vượt ra ngoài giới hạn về không gian và thời gian.
So sánh với bản chữ hán của Đặng Trần Côn “Sầu tự hải/ Khắc như niên”, ta thấy Đoàn Thị Điểm
không chỉ trung thành với nguyên tác mà còn có những sáng tạo riêng trong quá
trình dịch, giúp người đọc dễ hiểu, dễ đồng cảm hơn với nhân vật trữ tình.
Người chinh phụ chán ghét thời gian trôi
chậm chạp, cố vùng thoát khỏi chuỗi ngày cô đơn, lẻ loi dai dẳng.
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”
Mong muốn xóa
tan ưu phiền, người chinh phụ đốt hương nhưng lại không kìm được lòng mà mê man
trong quá khứ.
Trong đoạn trích “Thề nguyền” trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du, Kim Trọng cũng đốt hương “Đài sen nối
sáp, lò đào thêm hương” để mùi hương trầm ấm áp làm chứng cho thời
khắc quan trọng – hai người cất hẹn ước trăm năm. Người chinh phụ cũng bồi hồi
nhớ lại lời hẹn thề năm nào. Mùi hương trầm đã vô tình đưa nàng trở về những
tháng ngày hạnh phúc trước kia, để tâm hồn nàng lạc đi tìm những kí ức đẹp quá
xa vời. Nhưng càng tiếc nuối quá khứ tươi đẹp, nhân vật trữ tình càng thấm
thía bi kịch hiện tại. Nàng trơ trọi, bơ vơ trong sự thật hiển nhiên: những mặn
nồng xưa kia không thể lấy lại được. Vậy, việc đốt hương vốn để tìm lại niềm
thanh thản trong tâm hồn lại khiến người phụ nữ bé nhỏ, đáng thương và bơ vơ
thêm thống khổ. Người chinh phụ đành tìm cách khác để giải tỏa tâm sự: nàng soi
gương. Trong chuỗi ngày đợi chờ người chinh phu, người chinh phụ chẳng buồn
đoái hoài đến phấn son hoa lệ: “Vắng chàng điểm phấn trang hồng với
ai?” Nhưng đêm nay, mong muốn thoát khỏi nỗi cô đơn bủa vây,
nàng gượng gạo cầm gương soi. Nàng giật mình xót xa cho dung nhan võ vàng của
người phụ nữ trong gương kia. Nàng thương đôi mắt buồn chứa chan u sầu, nàng
thương đôi môi chẳng thể nở một nụ cười nhạt, nàng khóc cho tuổi xuân héo tàn,
cho dung mạo đang độ tươi thắm bị nỗi đau âm ỉ tàn phá. Nhưng những giọt lệ nào
có thể giúp nàng cứu vãn được tình cảnh bi đát này. Cảm thấy việc đốt
hương, soi gương không thể giúp quên đi chuyện buồn, người chinh phụ tìm đến
tiếng đàn. Tác giả sử dụng một loạt hình ảnh ước lệ như “sắt
cầm”, “dây uyên”, “phím loan” tượng trưng cho tình yêu đôi
lứa, cho vợ chồng hòa hợp. Người chinh phụ lo sợ dây đàn đứt, báo điều
chẳng lành về cuộc hôn nhân đang bị chia cắt, về người chồng ngoài chiến trường
bặt vô âm tín. Điệp từ “gượng” cho thấy sự cố gắng
gượng gạo, chán nản ở người chinh phụ, nàng vùng vẫy trong nỗi cô đơn nhưng lại
bị chính nỗi cô đơn bóp chặt. Những thú vui của tầng lớp quý tộc giờ đây lại
không thể đem lại cho nàng niềm vui, hơn thế nữa chúng lại như liều thuốc kích
thích khối u sầu khổ trong lòng nàng. Nàng chỉ mong được sum vầy, nhưng
buổi đoàn tụ trong tưởng tượng của nàng lại quá đỗi xa xỉ trong hoàn cảnh này.
Giúp việc truyền tải nội dung và giá trị
nhân đạo của “Chinh phụ ngâm” là
tài năng nghệ thuật và sáng tạo tài tình của tác giả và dịch giả. Xuyên suốt
mười tám câu thơ trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ“ là
các biện pháp nghệ thuật như điệp ngữ, câu hỏi tu từ, ẩn dụ,… và các bút pháp
ước lệ tượng trưng, tả cảnh ngụ tình. Tác giả cũng có sự chọn lọc tinh tế các
từ ngữ gợi hình, gợi cảm để miêu tả chi tiết và chân thực, cảm động từng cung
bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Thêm vào đó, thể thơ song thất lục bát với
âm điệu réo rắt, thiết tha, giàu tính nhạc cũng góp phần quan trọng thể hiện
nội tâm người chinh phụ. Bên cạnh đó, Đoàn Thị Điểm rất trung thành với nguyên
tác khi dịch nên nhiều ý thơ giàu cảm xúc được truyền tải đến người đọc một
cách trọn vẹn.
Kết lại, “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ“ trích “Chinh
phụ ngâm” của
Đặng Trần Côn đã để lại trong lòng người đọc nhiều dư âm sâu sắc về nỗi buồn
đau, thương nhớ da diết, tình cảnh cô độc, lẻ loi của người phụ nữ có chồng đi
lính. Qua đó, người đọc hiểu những tâm tư tình cảm và suy nghĩ của tác giả về
con người, xã hội đương thời. Ông lên án chế độ phong kiến mục nát với những
cuộc chiến tranh phi nghĩa kéo dài và ngợi ca tình yêu cao đẹp, khát khao yêu
thương đôi lứa.
(Sưu tầm)