MỘT
SỐ ĐỀ LÀM VĂN VÀ GỢI Ý LÀM BÀI
Đề
1:
Vần thơ của
Bác, vần thơ thép
Mà vẫn mênh
mông bát ngát tình
Điều đó thể hiện như thế nào trong bài Chiều tối
A. Mở bài:
- Hồ Chí
Minh là nhà yêu nước, nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người là anh hùng
giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Đóng góp to lớn nhất của Người
là sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh Hồ Chí Minh - nhà cách mạng, còn có Hồ Chí
Minh - nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa lớn.
- Chiều
tối là bài thơ tiêu biểu cho thơ trữ tình Hồ Chí Minh
- Dẫn được hai câu thơ của Hoàng
Trung Thông
B.Thân bài :
a.
Giải thích ngắn gọn ý thơ của Hoàng Trung Thông
- Thơ Bác luôn hài hòa chất thép với
tinh thần chiến đấu vượt khó, dũng khí kiên cường và chất tình tình cảm dạt dào
với thiên nhiên, cuộc sống, con người.
- Thơ Bác sáng lên vẻ đẹp một chiến
sĩ và thi sĩ.
b.
Phân tích, chứng minh: Trong bài Chiều tối, chất thép và chất tình thể
hiện rất tinh tế
- Hai câu đầu: Qua bức tranh thiên
nhiên, Bác thể hiện tình yêu thiên nhiên, phong thái ung dung, tự chủ gần gũi
với những hiền triết, những người nghệ sĩ thời xưa. Đó là tiếng thơ trữ tình,
dào dạt cảm xúc
- Hai câu sau: Qua bức tranh cuộc
sống, thơ Bác toát ra tình yêu cuộc sống con người, niềm vui, niềm lạc quan.
Những cảm xúc ấy là sự hài hòa chất tình và chất thép trong thơ, bởi vì có niềm
lạc quan Bác sẽ có thêm nghị lực sống, quyết tâm vượt qua cảnh ngộ lưu đày, cô
quạnh để đối mặt với số phận, vượt qua số phận. Đó là phong thái cứng cỏi của
người chiến sĩ cách mạng gang thép trong thơ và trong nhân cách con người Bác
* Lưu ý: - Trong quá trình phân
tích, học sinh phải kết hợp giữa nội dung và nghệ thuật bài thơ để làm rõ vấn
đề.
- Phần này học sinh có thể liên hệ
dẫn chứng thêm một số bài thơ khác trong Nhật
ký trong tù để tăng sức thuyết phục cho bài viết.
(Phần phân tích chứng minh có thể
làm theo cách khác như sau
a. Lòng nhân
ái bao la, tình yêu cuộc sống sâu nặng
- Yêu thiên nhiên,
tạo vật. Qua bài thơ, hình ảnh thiên
nhiên luôn chiếm vị trí nổi bật. Bác nâng niu từng biểu hiện của sự sống: cánh
chim, đám mây... Có ai ngờ, thiên nhiên lại hiện lên đẹp và sáng đến thế trong
bài thơ Bác bị giải đi vào lúc nửa đêm.
- Quan tâm tới con
người. Dù trong hoàn cảnh nào, Bác cũng không quên nghĩ tới con người. Hình ảnh
thiếu nữ xay ngô tối với Bác là vẻ đẹp của cuộc sống bình dị. Ngọn lửa hồng reo
vui trong bếp lửa gia đình, lòng Bác như cũng reo vui với nó (dẫn chứng).
b. Một tâm
hồn tự do, không tù ngục, xích xiềng nào giam giữ nổi.
c. Một tâm
hồn có tinh thần thép vượt qua những đọa đày về thể xác, mọi thử thách khốc
liệt về tinh thần.
Qua hình ảnh quyện điểu và cô vân, ta bắt gặp thoáng buồn, thoáng cô đơn
rất người của Bác. Nhưng trước ngọn lửa hồng Bác quên đi việc mình chưa được
dừng chân trên con đường đày ải mà để lòng mình reo vui cùng ngọn lửa, để hình
ảnh tỏa ấm trên trang thơ, xua tan cái lạnh lẽo, cô đơn của lòng người và cảnh
vật. Ngọn lửa hồng trở thành vẻ đẹp tinh thần của nhà cách mạng.
d. Một tâm
hồn lạc quan, tin tưởng
Kết thúc bài thơ bằng hình ảnh ngọn lửa hồng
mang lại cảm giác phấn chấn, lạc quan. Lời thơ vời vợi lòng tin.
e. Một hồn
thơ phong phú
- Thi hứng đã đến
với Người trong những giờ phút nặng nề, cực nhọc nhất của cuộc đời, ngay cả
trong lúc đối với người bình thường, cảm xúc thơ dễ bị triệt tiêu nhất hoặc
không cất lên nổi: Cốt cách thi nhân ở Bác thể hiện ở niềm rung động trước cái
đẹp, dù trong cảnh huống nào.
- Niềm rung động ấy
được thể hiện bằng những vần thơ vừa cổ kính, vừa hiện đại của một tâm hồn nghệ
sĩ mang cốt cách phương Đông. Hồn thơ Hồ Chí Minh bắt rễ rất sâu vào truyền
thống dân tộc, truyền thống phương Đông).
c.
Bình luận:
Qua bài Chiều tối, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh hiện lên tinh tế: người nghệ sĩ- chiến sĩ. Đọc thơ Người,
chúng ta thấy được một con người lạc quan, tinh thần cách mạng sáng ngời. Ý
kiến của nhà thơ Hoàng Trung Thông về thơ Hồ Chí Minh thật xác đáng
C. Kết bài: Tổng kết vài nét về ý
kiến của Hoàng Trung Thông và bài thơ Chiều
tối
Đề 2: Vẻ đẹp
tâm hồn của Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều
tối
1: Giới thiệu tác
giả, tác phẩm, luận đề
- Hồ Chí Minh là
nhà cách mạng, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là nhà văn,
nhà thơ lớn của dân tộc. Bên cạnh sự nghiệp cách mạng vĩ đại, Người cũng để lại
một sự nghiệp văn học đa dạng, phong phú.
- Nhật ký trong tù là tập thơ viết bằng
chữ Hán của Hồ Chí Minh trong thời kỳ Người bị giam giữ ở nhà lao của bọn Tưởng
Giới Thạch từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943. Tập thơ chẳng những cung cấp cho
ta những hiểu biết về chế độ lao tù khắc nghiệt của chính quyền Tưởng Giới Thạch,
mà quan trọng hơn còn giúp ta hiểu rõ vẻ
đẹp tâm hồn của chính bản thân người đã sáng tạo ra nó, nhà cách mạng, nhà
thơ Hồ Chí Minh.
- Có thể thấy rõ
điều đó qua bài thơ Chiều tối (Mộ)
của Người.
2: Những biểu hiện
cụ thể: Là nhật ký, tác phẩm còn là tập thơ trữ tình nên thiên
về việc bộc lộ thế giới bên trong, thế giới tâm hồn của người sáng tạo. Đó là
lòng nhân ái bao la, là tình yêu cuộc sống sâu nặng, là tâm hồn của con người
có sự tự do tinh thần tuyệt đối, là cốt cách vững vàng, một phong thái ung dung
tự tại...
a. Lòng nhân
ái bao la, tình yêu cuộc sống sâu nặng
- Yêu thiên nhiên,
tạo vật. Qua bài thơ, hình ảnh thiên nhiên luôn chiếm vị trí nổi bật. Bác nâng
niu từng biểu hiện của sự sống: cánh chim, đám mây...
- Quan tâm tới con
người. Dù trong hoàn cảnh nào, Bác cũng không quên nghĩ tới con người. Hình ảnh
thiếu nữ xay ngô tối với Bác là vẻ đẹp của cuộc sống bình dị. Ngọn lửa hồng reo
vui trong bếp lửa gia đình, lòng Bác như cũng reo vui với nó (dẫn chứng).
b. Một tâm
hồn tự do, không tù ngục, xích xiềng nào giam giữ nổi.
c. Một tâm
hồn có tinh thần thép vượt qua những đọa đày về thể xác, mọi thử thách khốc
liệt về tinh thần.
Qua hình ảnh quyện
điểu và cô vân, ta bắt gặp thoáng buồn, thoáng cô đơn rất người của Bác. Nhưng
trước ngọn lửa hồng Bác quên đi việc mình chưa được dừng chân trên con đường
đày ải mà để lòng mình reo vui cùng ngọn lửa, để hình ảnh tỏa ấm trên trang
thơ, xua tan cái lạnh lẽo, cô đơn của lòng người và cảnh vật. Ngọn lửa hồng trở
thành vẻ đẹp tinh thần của nhà cách mạng.
d. Một tâm
hồn lạc quan, tin tưởng
Kết thúc bài thơ bằng hình ảnh ngọn lửa hồng
mang lại cảm giác phấn chấn, lạc quan. Lời thơ vời vợi lòng tin.
e. Một hồn
thơ phong phú
- Thi hứng đã đến
với Người trong những giờ phút nặng nề, cực nhọc nhất của cuộc đời, ngay cả
trong lúc đối với người bình thường, cảm xúc thơ dễ bị triệt tiêu nhất hoặc
không cất lên nổi: Cốt cách thi nhân ở Bác thể hiện ở niềm rung động trước cái
đẹp, dù trong cảnh huống nào.
- Niềm rung động ấy
được thể hiện bằng những vần thơ vừa cổ kính, vừa hiện đại của một tâm hồn nghệ
sĩ mang cốt cách phương Đông. Hồn thơ Hồ Chí Minh bắt rễ rất sâu vào truyền
thống dân tộc, truyền thống phương Đông.
3. Kết bài: Tổng kết vấn đề
Đề 3: Vẻ đẹp
cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng
giang (Huy Cân)
A. Mở bài
-
Huy Cận là một trong những trụ cột của phong trào Thơ Mới.
- Thi phẩm Lửa
thiêng thì thường lẳng lặng kết hợp và dung hoà giữa chủ nghĩa tượng trưng
trong thơ Pháp với cái hàm súc, sâu lắng của thơ Đường để tạo cho thơ mình một
vẻ đẹp riêng: vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại.
-
Có thể thấy rõ nét đặc sắc của bài thơ Tràng
giang là ở sự kết hợp hài hoà hai phẩm chất : màu sắc cổ điển và chất hiện
đại.
B.Thân bài
1.
Màu sắc cổ điển trong Tràng Giang:
a. Giải
thích cổ điển là gì?
Là những thi pháp, hình ảnh thơ cổ được sử
dụng trong văn học, đó là truyền thống là tinh hoa của văn học dân tộc.
b.
Màu sắc cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng
giang
- Tràng
giang là một thi phẩm được viết trên tinh thần không khước từ với truyền
thống. Tác giả vận dụng được nhiều nét tinh hoa của văn chương trung đại và tạo
cho bài thơ một vẻ đẹp hài hoà giữa màu sắc cổ điển và màu sắc hiện đại phù hợp
với phong cách thơ giàu suy tưởng của chính mình. Màu sắc cổ điển đậm đà, in
dấu ấn toàn diện tạo nên vẻ độc đáo của một bài Thơ Mới.
- Nét đẹp cổ điển và hiện đại được thể hiện ngay từ thi đề của
bài thơ “Tràng giang”. Hai chữ “tràng giang” mang tính cổ điển mà trang
nhã, là từ Hán Việt, gợi cho ta đên những bài thơ Đường thi có màu sắc xưa cũ,
cổ kính. Nhưng nếu các thi nhân xưa đến với thiên nhiên để tìm sự giao cảm thì
nhà thơ hiện đại Huy Cận lại đứng trước “Tràng
giang” để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã trước kiếp người nhỏ bé cô đơn. Đó là
một tâm hồn rất hiện đại mà qua đó ta có thể thấy được nét quyến rũ của bài
thơ.
- Ngoài ra
bài thơ “Tràng Giang” mang vẻ đẹp cổ
điển và hiện đại thể hiện ở thể loại thơ và bút pháp mà tác giả sử dụng. Thể
loại thơ ở đây là thơ 7 chữ với lối ngắt nhịp đăng đối nhuần nhuyễn. Song, “Tràng giang” cũng rất mới qua những từ
ngữ giãi bày cảm xúc cá nhân
- “Tràng giang”
là một bức tranh về phong cảnh mà còn là một bản nhạc về tâm hồn. Nét thi vị
của bài thơ là ở vẻ đẹp cổ điển và hiện đại luôn hòa quyện, sóng đôi. Nét đẹp
của bài thơ sẽ mãi đi vào lòng người, để rồi qua vẻ đẹp đó ta thấy được một tấm
lòng yêu nước thầm kín, một tài hoa rực sáng của thi ca.
c. Phân tích chứng minh
Cổ điển ở nhan đề:
-
Bài thơ mới lại có nhan đề bằng chữ Hán. “Tràng” ( một âm đọc khác của
“trường”) gợi sự cổ kính. “Giang” là tên chung để chỉ các dòng sông. Hai chữ
này gợi một không gian cổ kính, trang trọng, bát ngát như trong Đường thi, gợi
nhớ câu thơ nổi tiếng của Lý Bạch: “Duy kiến trường giang thiên tế lưu” ( Hoàng
Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng). Hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con
sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ
"tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng
Trường Giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng
sông của tâm tưởng.
-
Tứ thơ "Tràng giang" mang
nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước,
không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi
nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về
thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước
vũ trụ bao la.
Cổ điển
ở đề từ:
“Trời
rộng” gợi cảm giác về sự vô biên của vũ trụ. “Sông dài” tạo ấn tượng về cái vô
cùng của không gian. Trời rộng và sông dài mở ra không gian ba chiều gợi cảm
giác rợn ngợp của con người cô đơn, bé nhỏ trước cái mênh mang, bất tận của
trời đất.
Cổ điển
ở thi liệu
Ở
Tràng giang, ta bắt gặp nhiều hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ: con thuyền, dòng
sông, cách bèo, mặt nước. Có những hình ảnh tượng trưng thường gặp trong thơ cổ
: Tràng giang, sông dài , trời rộng, bến cô liêu, mây cao, núi bạc, cánh chim
nhỏ, bóng chiều sa, khói hoàng hôn, cuộc sông' con người thì buồn tẻ, chán
chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà
thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc
mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên
nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
Cổ điển
ở tứ thơ sóng đôi:
-
“Tràng giang” được cấu tứ trên nền
cảm hứng không gian sóng đôi:
-
Có dòng “Tràng giang” thuộc về thiên nhiên trong tư cách một không gian hữu
hình và ( cũng có ) dòng “Tràng giang” tâm hồn như một không gian vô hình trong
tâm tưởng. Đây vốn là cấu tứ quen thuộc của Đường Thi.
-
Tiếp cận Tràng giang trong tư cách
dòng sông thiên nhiên có thể thấy một điều đặc biệt: khổ thơ nào cũng có thông
điệp về nước. Thông điệp trực tiếp là các từ : “nước”, “con nước”, “dòng”…Thông
điệp gián tiếp là các từ : “sóng gợn”, “cồn nhỏ”, “bèo dạt”, “bờ xanh”, “bãi
vàng”…
-
Tiếp cận Tràng giang với tư cách dòng sông cảm xúc trong tâm hồn lại phát hiện
thêm một điều thú vị nữa: Cảnh nào cũng gợi buồn.
Cổ điển ở nghệ thuật đối:
-
Màu sắc cổ điển còn được bộc lộ qua cách sử dụng nghệ thuật đối của Đường Thi
nhưng khá linh hoạt và phóng túng. Chẳng hạn: “Sóng gợn…”đối với “ Con
thuyền…”; “Nắng xuống đối với trời lên…” ; “Sông dài đối với trời rộng…”. Nhưng
đóng góp quan trọng hơn cả là nghệ thuật đối được sử dụng một cách triệt để
bằng hai hệ thống hình ảnh mang tính tương phản giữa một bên là những sự vật
nhỏ bé, gợi suy ngẫm về cái hữu hạn của kiếp người: thuyền, củi, bến, bèo, cánh
chim…và một bên là những hình ảnh lớn lao, hùng tráng gợi liên tưởng về cái vô
hạn của vũ trụ: sông dài, trời rộng, lớp lớp mây cao, núi bạc…
Sử dụng
hệ thống từ láy gợi âm hưởng cổ kính: (10 lần/16dòng thơ, cách ngắt nhịp truyền
thống: 3/4)
-
Hệ thống từ láy trải khắp bài thơ: “Tràng giang”, “điệp điệp”, “song song”, “lơ
thơ”, “đìu hiu”, “chót vót”, “mênh mông”, “lặng lẽ”, “lớp lớp”, “dợn dợn”.Ngoài
ra, tác giả còn sử dụng sáng tạo thi liệu của Đường Thi với rất nhiều hình ảnh
và chất liệu quen thuộc. Đặc biệt câu kết mượn thẳng ý thơ của Thôi Hiệu trong
bài Hoàng Hạc Lâu: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” ( Trên sông khói sóng cho
buồn lòng ai - Tản Đà dịch ).
2.
Màu sắc hiện đại:
Dù bài thơ Tràng giang có in đậm
màu sắc cổ điển trên một số phương diện như đã phân tích thì hiện đại vẫn là
nét chính của thi phẩm này. Bởi cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn mênh
mang, sâu lắng của cái tôi cô đơn trước vũ trụ được bộc lộ một cách trực tiếp
qua một cách diễn đạt cô đọng và hàm súc. Tâm trạng của một cái tôi lãng mạn đó
lại được thể hiện bằng bút pháp tả thực vừa phá vỡ qui tắc ước lệ truyền thống
vừa đem đến một phong cách trữ tình mới.
- Nét hiện đại trong Tràng giang
trước nhất thể hiện ở “nỗi buồn thế hệ” của một “cái tôi” Thơ mới thời mất nước
“chưa tìm thấy lối ra”, qua xu hướng giãi bày trực tiếp “cái tôi” trữ tình
(buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà…), qua những
từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn xúc cảm cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm
thân mật, dợn…)
- Mặt khác, Tràng giang cũng không
thiếu những hình ảnh, âm thanh chân thực của đời thường, không ước lệ (củi khô,
tiếng vãn chợ chiều, bèo dạt…). Bài thơ hiện đại và là một bài thơ mới. Có cái
mới của hồn thơ, có cái mới của chủ thể trữ tình.Khác với thơ xưa, tâm trạng
của chủ thể trữ tình,cảm hứng cá nhân của nhà thơ chạy suốt toàn bài mới là
nhất quán .Nó khác hẳn với kết cấu đề - thực - luận - kết , hay tiền giải - hậu
giải của thơ Đường. Bài thơ hiện đại trong cách cảm nhận sự vật, trong cách sử
dụng thi liệu hình ảnh : củi, sông, nắng, bèo, cát, cây xanh, cánh chim , ....Tất
cả làm nên một bức tranh thiên nhiên quê hương gần gũi , quen thuộc . Bởi nó đã
in dấu, đã hằn sâu, đã hoà cùng dòng chảy và đã lẫn vào những cảnh quê hương
sông nước trên khắp đất nước Việt Nam yêu dấu.
(Có thể phân
tích bài thơ theo hướng sau
Khổ 1: Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con
sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Cũng như nhiều nhà thơ mới khác cùng thời, Huy Cận
luôn mang trong tâm tư của mình nỗi sầu của cả thế hệ. Đó là nỗi sầu nhân gian,
nỗi sầu vạn kỷ chảy về:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp.
Nhìn dòng
sông mênh mông gợn sóng, tác giả cảm thấy
+ Buồn điệp điệp: Điệp từ như nhấn mạnh mức độ của
nỗi buồn. Nỗi buồn ấy đang trải ra, đang dềnh lên mênh mông bát ngát cùng sóng
nước
+ Và giữa không gian sông nước mênh mông ấy có
một con thuyền thật lặng lẽ:
Con
thuyền xuôi mái nước song song.
Con thuyền xuôi mái là con thuyền
buông mái không chèo để mặc dòng nước cuốn trôi. Giữa không gian rộng lớn, con
thuyền trở nên nhỏ bé bơ vơ.
Không chỉ có vậy thuyền còn gợi
lên một cái gì nổi lênh như kiếp người trong cuộc đời cũ. Nhất là ở đây con
thuyền lênh đênh thả mái xuôi dòng.
Cảnh có
sự chuyển động là thế, nhưng sao ta chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của
dòng “tràng giang”.
Và trong cái thiên
nhiên vô cùng,
vô tận ấy, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng
Thuỳên về nước lại sầu trăm ngả
Củi một
cành khô lạc mấy dòng
Thuyền về, nước ở lại, sầu chia
li bao trùm trăm ngả. Trên dòng nước mênh mông ấy, một cành củi khô nhỏ bé gầy
guộc vừa lìa cành bập bềnh trên sóng nước không biết trôi về đâu
- Hai câu thơ, phép đối được sử
dụng một cách sáng tạo, chỉ đối ý đối hình mà vần thơ vẫn cân xứng hài hoà.Con
thuỳên và cành củi khô đang cùng trôi nổi trên tràng giang.
- Các số từ sầu trăm ngả, củi một cành khô, mấy
dòng đã cho ta thấy rõ cái ám ảnh về kiếp người nhỏ bé hữu hạn, sự đau khổ sầu
thương thì to lớn vô hạn.
Nét đẹp cổ điển “tả cảnh ngụ tình” thật khéo léo, tài hoa
của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các
khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng
thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện
đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói “Củi một cành khô” thật đặc biệt. Nó không chỉ thâu tóm cảm xúc của
toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi,
lạc lõng.
Khổ
2: Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh
quạnh vắng của không gian lạnh lẽo. Vẫn là cảnh sông nước nhưng tác giả vẽ thêm
đất thêm người:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa
vãn chợ chiều
Nắng xuống trời
nên sâu chót vót
Sông dài trời rộng
bến cô liêu.
Nỗi buồn vô hạn ấy lại được miêu
tả qua một không gian bao la. Cái nhỏ bé tương phản với cái mênh môngvô cùng:
- Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu nghĩa là cồn nhỏ bé thưa thớt buồn bã. Vần
lưng nhỏ- gió kết hợp với láy âm lơ
thơ và đìu hiu làm âm hưởng lời thơ như nặng trĩu lòng người về một nỗi
buồn hiu hắt cô quạnh
- Và nghệ thuật láy tài ba ấy đã
gợi lên màu sắc cổ kính, dẫn hồn người đọc trở về với cổ thi:“Non quì quạnh quẽ
trăng treo-Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”(Chinh phụ ngâm),”lơ thơ tơ liễu
buông mành”(Truyện Kiều)
- Chợ chiều vốn đã buồn,thì vãn chợ chiều lại
càng buồn hơn xao xác hơn lại . Thế mà giờ đây cái âm thanh xao xác
ấy dường như tác giả cũng không nghe thấy
- “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Câu thơ mang âm hưởng của một câu
hỏi bộc lộ cái ngơ ngác của thi nhân với nỗi buồn cô quạnh chưá chất trong
lòng.Và cũng chính câu hỏi ấy nó làm cho không gian có tiếng của con người
nhưng thật thoảng thật mơ hồ.Âm thanh ấy chỉ càng gợi thêm không khí tàn tạ
vắng vẻ chia lìa.
Những
câu tiếp theo,nỗi buồn không chỉ có ở mặt đất mà dường như nó còn bao trùm cả
bầu trời:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông
dài trời rộng bến cô liêu
Bầu
trời và lòng sông là không gian ba chiều. Thường người ta nói:cao chót vót và
sâu thăm thẳm. Nhưng Huy Cận lại viết
- “sâu chót vót” để diễn tả độ cao, độ
trong, độ sâu thẳm của bầu trời nhiều nắng, nhiều ánh sáng của trưa đã ngả sang
chiều.Và không
chỉ có không gian hai chiều nắng xuống trời lên, mà nó còn được mở rộng ra
thành
-“sông dài trời rộng” không gian
ba chiều Cả một không gian rộng lớn bao la mênh mông đến rợn ngợp.Và nổi lên
trên cái khung nền ấy là
_“bến cô liêu”-bến sông nhỏ bé vắng người. Cái nhỏ
bé của bến sông như một nét chấm phá gợi tả cái bao la bát ngát của khônggian. Qua đó càng tô đậm cảm giác cô đơn
rợn ngợp của con người trước vũ trụ bao la .
Khổ 3: Trong không gian buồn xa vắng đó ai cũng muốn
tìm đến những dấu vết của cuộc sống con người
- “Bèo dạt về đâu hàng nối
hàng”.Câu thơ gợi nhớ đến câu ca quen thuộc:bèo dạt mây trôi. Nó cũng gợi cho
ta hình dung rõ nét về sự lênh đênh trôi nổi vô định, tan tác chia lìa của
những kiếp người truân chuyên lưu lạc.
Cái buồn càng được nhấn mạnh hơn bắng
hai lần phủ định:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không
cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh
tiếp bãi vàng.
- Không một cây cầu ,không
một con đò nghĩa là hoàn toàn không bóng người hay một cái gì đó gợi đến tình
người Chỉ có màu vàng của bãi tiếp nối với màu xanh của bờ chạy dài về
phía chân trời xa đến vô tận như hai thế giới cuả sự cô đơn xa lạ không chút
niềm thân mật, không chút đồng điều tân hồn.
- Ở đây tác giả đã dùng thủ
pháp nghệ thuật cổ điển: lấy không để nói có. Nhắc đến chợ chiều đã vãn, không
có tiếng người, một dòng sông hoang vắng không cầu không đò làm cho ta càng tha
thiết khát khao cuộc sống ấm cúng đông vui.
Khổ 4: Ở khổ cuối, Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho khoảnh khắc hoàng hôn trên sông nước tràng giang:
Lớp lớp
mây cao đùn núi bạc
- Câu thơ thể hiện một cái nhìn
xa vời vợi. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn
khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
+“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động
từ “đùn”, khiến mây như chuyển động,
có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi, và khi ánh chiều
phản chiếu chúng lấp lánh như những núi bạc. Cảnh sắc thiên nhiên thật tráng lệ
và kỳ vĩ. Bầu trời chắc là xanh thẳm hoặc tím thẫm trong khoảnh khắc hoàng hôn
nên màu mây cuối chân trời mới ánh lên màu bạc ấy.
+Giữa cái bao la mênh mông ấy
bỗng xuất hiện một cánh chim nhỏ nhoi:
“Chim nghiêng cánh nhỏ bóng
chiều sa”
- Thơ ca
xưa nói về cảnh hoàng hôn vẫn thường điểm thêm một cánh chim trên nền
trời.Ví dụ: Chim bay về núi tối rồi (ca
dao), Chim hôm thoi thót về rừng (Nguyễn
Du), Ngàn mai gió núi chim bay mỏi
(Bà Huyện Thanh Quan),. Nhưng cánh chim trong thơ Huy Cận đúng là cánh chim
chiều trong thơ mới. Bởi nó có sự đối lập giữa chim nghiêng cánh nhỏ với lớp
lớp mây cao, giữa cánh chim nhỏ bé với vũ trụ bao la.Và sự đối lập ấy càng làm
cho cảnh rộng hơn mênh mông hơn, xa vắng hơn. Cánh chim như ènhỏ nhoi hơn đơn lẻ hơn. Cánh
chim ấy đang sa xuống phía chân trời như một tia nắng chiều rớt xuống. Tuy có
hơi hướng của sự sống gợi chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng nhơ bé quá mông lung
quá, vì thế nỗi buồn càng da diết thêm
- Giữa khung cảnh cổ điển đó, người
đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng
nhà.
“Dợn dợn” là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy
trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ “vời
con nước” cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê” :
Không khói hoàng hôn cũng nhà.
Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê
hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét
tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh
mất nước.Câu thơ cũng gợi cho ta nhớ đến câu thơcủa Thôi Hiệu trong Hoàng hạc
lâu:Yên ba giang thượng sử nhân sầu-Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ
nhà. Còn nhà thơ mới của chúng ta tuy không thấy khói sóng cũng nhớ nhà.Nên ènỗi buồn nhớ quê hương của nhà
thơ cũng da diết hơn, cháy bỏng hơn.Và có lẽ
chỉ đến thơ mới thì nỗi buồn nhớ quê mới có được cái cảm giác dợn dợn như
thế và theo Xuân Diệu: Tuy khôngkhói hoàng hôn nhưng chính là bằng cách
ấy tác giả đã đưa thêm khói hoàng hôn của Thôi Hiệu vào bài thơ của mình để làm
giàu thêm cái buồn và nỗi nhớ nhà của người lữ thứ trước cảnh tràng giang.
Cái tôi trong thơ mới tất nhiên
là phải buồn. Thơ Huy Cận lại càng buồn hơn. Nhưng trong nỗi buồn cô đơn của
nhà thơ ta vẫn thấy một niềm khát khao được gần gũi hoà hợp cảm thông giữa
người với người trong tình đất nước, tình nhân loại )
3. Kết
bài
Nếu Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất
trong tất cả những nhà thơ mới thì Huy Cận là nhà thơ có công tô bồi cho lâu
đài thơ mới càng thêm lồng lộng sáng đẹp. Là một nhà thơ mới nhưng Huy Cận đã
hoà vào dòng chảy của Thơ mới một cách nhuần nhị những yếu tổ cổ điển của văn
học trung đại Việt Nam, của Đường thi. Trong nỗi niềm “mang mang thiên cổ sầu” của người phương Đông xưa trước con người
và vũ trụ, nhà thơ lồng vào đấy nỗi cô đơn của con người cá nhân ý thức cái tôi
cá thể vừa tiếp thu được từ triết học và thơ ca phương Tây.. Cái tôi cá thể từ
văn hoá văn học Pháp bước xuống cuộc đời để rồi cảm nhận nỗi cô đơn, bất lực
của mình, nên ngoái nhìn về phía quê nhà, về phía truyền thống, mong cầu được
sống vói cái ta làng xã ngày xưa. Thơ ông, do đó mà có sự hoà hợp giữa thi pháp
thơ Đường với thi pháp thơ tượng trưng Pháp.
Đề 4: Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của
bài thơ Chiều tối (Hồ Chí Minh)
A. MỞ BÀI
- Hồ Chí
Minh là nhà yêu nước, nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người là anh
hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Đóng góp to lớn nhất của
Người là sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh Hồ Chí Minh - nhà cách mạng, còn có Hồ
Chí Minh - nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa lớn.
- Chiều tối là bài
thơ tiêu biểu cho thơ trữ tình Hồ Chí Minh
- Bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển và
hiện đại
B/ THÂN BÀI
I/ GIỚI THIỆU
CHUNG
1/ Xuất xứ
- Bài thơ được rút
trong tập Nhật kí trong tù
- Trên đường chuyển lao
khổ ải từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), Bác Hồ viết
liền năm bài thơ. Chiều Tối là bài thơ thứ ba trong chùm thơ này .
2/ Cổ điển và
hiện đại trong bài Chiều tối
a. Giải thích cổ điển là
gì?
Là
những thi pháp, hình ảnh thơ cổ được sử dụng trong văn học, đó là truyền thống
là tinh hoa của văn học dân tộc.
b. Cổ điển và hiện đại trong bài thơ: Bài thơ được sáng tác theo thể thơ Đường luật
thất ngôn tứ tuyệt. Vì thế nó mang đậm phong vị Đường thi ở bút pháp nghệ thuật
lấy cảnh để ngụ tình, lấy động tả tĩnh, lấy ít gộ nhiều. Nhưng bài thơ còn được
sáng tác bởi người Cộng sản Hồ Chí Minh nên bên cạnh phong vị cổ điển nó đây
còn là một bài thơ hiện đại. Chất hiện đại được bộc lộ ở sự vận động của
hình tượng thơ, nhất là tấm lòng tư tưởng của thi nhân: yêu thiên nhiên, yêu
con người, tinh thần lạc quan của Bác dù ở bất kì hoàn cảnh nào. Đó chính là
chất thép lấp lánh trong thơ Hồ Chí Minh
3. Phân tích chứng minh
1/ Bài thơ
được mở đầu bằng một bức tranh phong cảnh thiên nhiên
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm
mây trôi nhẹ giữa từng không
Nhà thơ
không trực tiếp nói về thời gian nhưng thời gian vẫn hiện về qua cảnh vật :
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chim bay về tổ đúng là dấu hiệu của chiều tối, chiều muộn.
Điều này ta thường thấy trong thơ ca : như: “chim bay về núi tối rồi”(ca dao); “chim hôm thoi thót về rừng”(Truyện Kiều);
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”(Bà Huyện
Thanh Quan); “Mây vẩn tầng không chim bay
đi”(Xuân Diệu); “Chim nghiêng cánh
nhỏ bóng chiều sa”(Huy Cận).
Có thể nói hình ảnh chim bay về tổ, về rừng sau một
ngày kiếm ăn là hình ảnh tiêu biểu mang ý nghĩa thời gian là cách cảm nhận thời gian mang tính truyền
thống mang phong vị Đường thi.
Thời gian còn hiện về qua Chòm mây trôi
nhẹ giữa tầng không
Hai chi tiết phác
họa mà gợi lên cái hồn của cảnh vật, ngày tàn màn đêm buông xuống, tạo vật dần
chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi,
Cũng ở hai câu thơ đầu,
ta con cảm nhận không gian của bức tranh thơ là ở chốn núi rừng với ánh sáng của ngày tàn
Ánh sáng làm nền cho khung cảnh thơ là ánh sáng mặt trời vào lúc sắp
tắt hẳn ở chốn núi rừng nên trong ánh sáng như thế ta chỉ có thể nhìn thấy đỉnh
trời. Người tù ngẩng đầu lên nhìn lên đỉnh trời, nhận ra con chim bay về tổ và
chòm mây lững lờ trôi. Điều này nhà thơ không nói, nhưng người đọc có thể cảm
nhận được như thế
Cảnh chiều hôm nơi xóm núi kia được đặc tả qua hai
câu thơ thất ngôn vừa hình tượng vừa gợi cảm. Mặt đất
thì âm u mà bầu trời thì rộng lớn thoáng đãng
Hai
câu thơ mang vẻ đẹp cổ điển:
Tả ít mà gợi nhiều, mượn điểm để vẽ diện, lấy động để gợi cái tĩnh, lấy
cái cực nhỏ, đơn chiếc để diễn tả cái bát ngát mênh mông.
Nhìn chim bay, mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la
hơn, cảnh chiều tối êm ả tĩnh lặng hơn. Và như vậy buổi chiều trên đường chuyển
lao của tác giả sao mà phảng phất những buổi chiều mà hình sắc đã vĩnh viễn
đọng lại trong thơ ca cổ.
Và tất cả đều chứa đầy tâm trạng. Cảnh bao
giờ cũng ngụ tình : Cánh chim chiều của tác giả không phải đang bay trong trạng
thái bình thường mà là :
“Quyện
điểu qui lâm”-“chim mỏi về rừng”.
Suốt ngày bay đi kiếm ăn, cánh chim cũng mệt mỏi. Hình ảnh
chim chiều nhưng cũng là hình
ảnh ẩn dụ cho tâm trạng của nhà thơ . Nhà thơ cũng mệt mỏi sau một ngày
lê bước trên con đường đi đày. Giờ đây không biết đâu là chặng
nghỉ chân qua đêm
Câu thơ thứ hai nhà thơ tiếp tục phác hoạ tâm trạng:
chòm mây như có tâm hồn, như
mang tâm trạng.
Nó cô đơn lẻ loi và lặng lẽ lững lờ trôi giữa không
gian rộng lớn của trời chiều. Bầu trời có chim, có mây nhưng mây lẻ loi, chim
mệt mỏi. Đã thế lại đang ở cảnh ngộ chia lìa. Chim bay về rừng, chòm mây ở lại
giữa từng không.
Hai câu thơ tả cảnh mà
mở ra cả một không gian tâm trạng, cảnh buồn, người buồn.
Vì cánh chim bay về tổ gợi niềm ước mong sum họp,
chòm mây cô đơn trôi lẻ loi chầm chậm về phía trời xa gợi thân phận lênh đênh
trôi dạt nơi đất khách quê người. Và không biết tới bao giờ nhà thơ mới được tự
do như cánh chim và chòm mây trên bầu trời kia.
Nhưng cũng qua hai câu
thơ này ta hiểu thêm được nét đẹp trong tâm hồn nhà thơ là : Dù ở
bất kì hoàn cảnh nào, dù phải sống giữa muôn ngàn cực khổ kể cả lúc thân thể
mất tự do, Bác vẫn luôn giữ cho mình một tình yêu say đắm trước vẻ đẹp của
thiên nhiên, luôn hoà
hồn mình vào hồn của trời đất rộng lớn với sự tự do tuyệt đối của tinh thần như
Bác đã từng nói: Vui say ai cấm ta đừng,
đường xa âu cũng bớt phần quạnh hiu. Và cũng qua nỗi buồn đó qua tư thế
ngẩng đầu dõi theo một cánh chim một chòm mây, ta còn
thấy một khát vọng tự do cũng như chất thép Hồ Chí Minh
2/ Hai câu sau
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
(Cô em
xóm núi xay ngô tối
Xay hết
lò than đã rực hồng)
Nếu hai câu thơ đầu cảnh vật hiện ra trong những nét
chấm phá phần nào mang tính ước lệ cổ điển với chim muông mây trời thì đến hai
câu sau là Cảnh sinh
hoạt gần gũi
và ấm áp trên mặt đất.
Hiện ra ở trung tâm bài thơ lúc này là một thiếu nữ
sơn thôn với công việc lao động bên bếp lửa gia đình. Một chất thơ khác một hơi
thở trữ tình khác làm cho vẻ đẹp của buổi chiều thêm hài hoà phong phú, làm cho
bài thơ thêm dáng vẻ hiện đại hơn
Hai câu kết chuyển hướng vận động của hình tượng
thơ. Ở trên, cảnh vật mênh mông, vắng lặng, ánh nắng ngày đang tắt dần, nhường
chỗ cho bóng đêm ập xuống. Còn ở đây, dù không tả thời gian,
nhưng ai cũng biết
Đất trời đã
vào đêm, bóng tối ken dày muôn nơi. Thời gian được vận động theo cánh chim và làn mây, theo những vòng
xoay của cối xay ngô, quay mãi “Ma bao
túc – Bao tức ma hoàn”, và đến khi cối xay ngô dừng lại thì “lô dĩ hồng”, lò than đã rực hồng. Thực ra cái
lò lửa ấy không phải đúng lúc đó mới bật sáng lên. Nó vẫn đỏ lên rồi, nhưng
phải đến khi ánh trời tắt hẳn, núi rừng mù mịt thì tự nhiên con người ta chỉ
nhìn thấy nơi đâu có ánh lửa. Và vì thế lúc xay ngô xong, trời tối hẳn nên mới
nhìn thấy nó rực hồng lên Hình ảnh cô gái hiện ra bên bếp lò lửa đỏ đến với nhà
thơ một cách tự nhiên như thế thôi. Và như thế, trong
nguyên tác Bác không dùng chữ tối vậy mà ta vẫn nhận ra trời đổ tối. Bác dùng
cái sáng để nói cái tối.
Bếp lửa của cô gái xay ngô đã
hồng lên nghĩa là buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đêm tối. Nhưng không
phải là đêm tối lạnh lẽo âm u như cảm nhận của người xưa mà là một đêm tối ấm
áp sáng bừng rực lửa. Sự vận
động của thời gian bất ngờ và khoẻ khoắn.
Cùng với sự vận động về thời gian
ta còn thấy sự vận động trong tâm trạng
của nhà thơ. Thực ra trong nhưng bài thơ vịnh
cảnh chiều hôm xưa cũng thấp thoáng bóng người, cũng chứa đầy tâm trạng : Lom khom dưới núi tiều vài chú – Lác đác bên
sông chợ mấy nhà. Cảnh có con người mà thiếu vắng sự sống. Con người chỉ
làm tôn thêm cái hùng vĩ, hoang sơ của trời đất thiên nhiên. Còn trong bài thơ
của Bác, trên nền cảnh của thiên nhiên rộng lớn, con người, sự sống của con
người, ngọn lửa của con người bỗng trở thành tụ điểm, thành trung tâm toả ấm
nóng và niềm vui ra tất cả.
Sơn thôn
thiếu nữ ma bao túc – lô dĩ hồng: có hình ảnh
cô gái toát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh, sống động, có cảnh làm
ăn bình dị : xay ngô, có lò than đã rực hồng. Các chi tiết nghệ thuật ấy
làm hiện lên một mái ấm gia đình, một cảnh đời dân dã bình dị
ấm áp
Và như vậy là không phải thiên nhiên làm chủ mà con người
mới là chủ thể, con người đã kịp thắp lên ngọn lửa, con người đã tạo nên ánh
sáng và hơi ấm cho con người, cho cảnh thiên nhiên. Chính cảnh xay ngô của
thiếu nữ và lò than đã rực hồng kia đã làm vợi đi những đau khổ của
người đi đày qua miền sơn cước xa lạ. Nó đưa lại cho người đi đường lúc
chiều hôm chút hơi ấm của sự sống, chút niềm vui hạnh phúc trong lao động của
con người. Nói cách
khác, nó là
điểm tựa tâm hồn cho một tù nhân Cộng Sản Hồ Chí Minh
Và cũng chính nhờ điểm tựa tâm
hồn ấy mà Bác có thể cảm nhận được một cuộc đời một con người dù là bình
thường nhỏ bé nơi xóm núi heo hút trong hoàn cảnh ngặt nghèo của bản thân :
Sơn thôn
thiếu nữ Ma bao túc – bao túc ma hoàn lô dĩ hồng là điệp ngữ vừa làm cho lời thơ giàu nhạc điệu, vừa
diễn tả sự chuyển động vòng tròn nặng nề của cối xay ngô. Qua đó ta cảm nhận
được sự trân trọng của nhà thơ trước đức tính cầm mẫn của thiếu nữ xóm núi
Bài thơ được sáng tác theo thơ
Đường luật. Và Bác không chỉ tiếp thu tinh hoa của thơ Đường, mà còn nhà thơ
còn đem vào hình thức chật hẹp của thơ Đường tâm hồn của người chiến sĩ cộng
sản lỗi lạc. Điều đó được thể hiện ở câu kết của bài thơ
Bài thơ không khép lại trong sự
mệt mỏi vội vã của cánh chim, trong sự uể oải cô đơn của chòm mây, trong sự
nặng nề của cối xay ngô ( ba câu
thơ trên: sự mệt mỏi, vội vã, nặng nề ) mà Bác
khép lại bài thơ bằng một chữ ( “hồng”). Bác
đã làm sáng rực toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi uể oải, vội vã, sự nặng nề
diễn tả ở trên, đã làm sáng rực cả khuôn mặt cô em xóm núi, nhuốm hồng lên cả
bóng đêm bơỉ cái tình của Bác.
Như vậy tâm trạng của nhà thơ được vận động từ buồn đến vui
từ lạnh lẽo cô đơn đến nóng ấm từ lụi tàn đến sự sống..
C.
KẾT LUẬN:
Chỉ
bằng bốn nét vẽ: cảnh chim chiều, áng mây lơ lửng trôi nhè nhẹ, thiếu nữ và lò
than, Bác để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc trong thơ ca Việt Nam.
Nhưng có lẽ không chỉ có thế mà qua bài thơ ta hiểu được tấm lòng yêu thiên
nhiên, tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của Bác dù ở bất kì hoàn cảnh nào.
Đó chính là chất thép lấp lánh trong thơ của Bác
Đề 5: Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử0
I/ Mở bài
Hàn Mặc Tử (1912 – 1940 là một trong những nhà thơ tiêu biểu
nhất của phong trào Thơ mới (1932-1941). Do ông có một cuộc đời đầy đau thương
nên hồn thơ của ông mãnh liệt nhưng quằn quại và đau đớn giữa linh hồn và thể
xác. Mặc dù vậy, ông vẫn luôn gắn bó với cuộc đời, tạo nên những hình ảnh nghệ
thuật tuyệt mĩ. Đây thôn Vĩ Dạ là một
trong những kiệt tác tiêu biểu cho hồn thơ của Hàn Mặc Tử. Người đọc còn mãi ám
ảnh bởi những vần thơ ấy
Sao anh
không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng
hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt
quá xanh như ngọc
Lá trúc che
ngang mặt chữ điền
II/
Thân bài
1/ Xuất xứ
-
Đây thôn Vĩ Dạ , được sáng tác vào khoảng năm 1938, in lần đầu
trong tập Thơ Điên (về sau đổi tên thành Đau thương).
-
Bài thơ lúc đầu có tên là Ở đây thôn Vĩ. Thi phẩm được gợi cảm hứng từ mối
tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê ở thôn Vĩ Dạ tên là Hoàng Thị
Kim Cúc.. Trong những ngày tháng vật lộn với cơn bệnh hiểm nghèo, Hàn Mặc Tử
nhận được tấm bưu ảnh về phong cảnh xứ Huế có sông nước xứ Huế cùng những dòng
chữ hỏi thăm của Hoàng Kim Cúc. Xúc động, bồi hồi trước tấm lòng cố nhân, Hàn
Mặc Tử đã sáng tác bài thơ này.
-
Bài thơ có 12 câu, chia làm 3 khổ, mỗi khổ thơ như một bức tranh tuyệt đẹp về
xứ Huế mộng mơ. Và phải chăng đằng sau những bức tranh đẹp về xư Huế là tình
yêu và niềm tự hào đối với quê hương đất nước của tác giả
2/ Phân
tích, cảm nhận
Sao anh
không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng
hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt
quá xanh như ngọc
Lá trúc che
ngang mặt chữ điền
Mở
đầu khổ thơ là một câu hỏi tu từ vừa dịu ngọt như lời mời chào vừa thân mật như
một lời trách cứ đáng yêu : Rằng đã lâu sao anh không về chơi thôn Vĩ và …thăm
em ?
Nhưng
đâu chỉ là sự mời chào, sự nhẹ nhàng trách cứ mà ẩn sâu bên trong là cả một nỗi
niềm nuối tiếc.
Nuối
tiếc vì cảnh đẹp thế, người đáng yêu thế mà sao đã lâu anh không về chơi, tất
cả được sống dậy trong hoài niệm của chàng trai. Và những hoài niệm đó gắn với
cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế.
Nhìn nắng
hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt
quá xanh như ngọc
Lá trúc che
ngang mặt chữ điền
Cảnh được
nói đến là một buổi bình minh. Nên :
+
Nắng mới lên là nắng buổi sáng sớm nhẹ nhàng tươi sáng, chiếu lấp lánh xuống
những hàng cau, tàu cau còn ướt đẫm sương đêm.
+
Hai từ nắng trong một câu thơ đặt cách nhau gợi cho người đọc một cảm giác về
sự chuyển động nhè nhẹ chầm chậm của ánh nắng ban mai.
Nắng
lên, cỏ cây vườn tược như bừng sáng :
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
+
Cụm từ phiếm chỉ “Vườn ai” được đặt ở
đầu câu thơ vừa dùng để hỏi nhưng vừa hàm ý bình phẩm xuýt xoa trước vẻ mướt
quá, đẹp quá của vườn cây.Nhưng đồng thời nó cũng vừa hàm chút ngỡ ngàng bâng
khuâng trong lòng tác giả : Vườn của nhà em đây hay vườn của nhà ai mà xanh
thế, đẹp thế. Thực ra vẫn là vườn nhà em đấy thôi, vẫn là cảnh cũ người xưa đó
thôi nhưng đã lâu chưa về chơi nên anh mới ngỡ ngàng trước sự mướt mát của cây
cối mà thốt ra như vậy.
Mướt
là sự êm mát mịn màng được cảm nhận bằng tay. Nhưng
+
Mướt quá của vườn cây lại được cảm nhận bằng mắt . Sự chuyển đổi cảm giác này,
không chỉ gợi sự dịu dàng êm mát mơn mởn của cây lá trong vườn, mà còn như cho
ta thấy sự xôn xao chuyển động của nhựa cây trong cây lá.
Vườn
tược Vĩ Dạ xanh tươi bốn mùa và màu xanh đó được Hàn Mặc Tử ví :
+
Xanh như ngọc
Trong
Thơ duyên, Xuân Diệu cũng đã từng viết : “Đổ
trời xanh ngọc qua muôn lá”. Xanh như
ngọc của Hàn Mặc Tử là thứ xanh non của lá câu còn đẫm sương được khuyếch
tán bởi những tia nắng mặt trời còn trinh bách nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi.
Cho
nên hai tiếng mướt quá và hình ảnh so sánh “xanh
như ngọc” là những nét vẽ thần tình tô đậm cái hồn của cây lá trong vườn
ai.
Và
cảnh vật dường như sinh động hẳn lên khi thấp thoáng xuất hiện bóng người :
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Thấp
thoáng sau những lá trúc mảnh mai thanh tú là khuôn mặt đầy đặn ẩn chứa bên
trong bản chất hiền lành trung thực. Phải chăng chính sự thanh mảnh xanh biếc
của lá trúc càng tôn thêm vẻ đẹp phúc hậu của gương mặt chữ điền. Và như thế, ở
đây, nhà thơ đã lấy cái thanh mảnh để gợi cái mộc mạc.
Câu
thơ như một bức hoạ thần tình khắc hoạ vẻ đẹp kín đáo đáng yêu của con người xứ
Huế
Bức
bưu ảnh và lời thăm hỏi của Hoàng Cúc là khởi hứng của bài thơ, làm nhà thơ
sống dậy một kí ức đẹp về Huế với cảnh vật tươi sáng trong trẻo lạ thường. Vĩ
Dạ được miêu tả trong một buổi hừng đông có màu phơn phớt của bình minh, có màu
xanh mướt của cây lá, có đường nét thanh mảnh xinh xắn của lá trúc và còn có cả
gương mặt phúc hậu của con người. Người đẹp, cảnh đẹp đó chính là cái hồn của
Vĩ Dạ thơ và mộng. Trên cái nền phong cảnh đầy hương sắc ấy vấn vương một hoài
niệm, một tiếng nói thì thầm của tình yêu.
III/ Kết luận :
Hàn Mặc Tử đã cho ta những vần thơ hay. Cảnh và người, mộng
và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ, bao nhiêu hình ảnh và
cảm xúc đẹp hội tụ trong khổ thơ. Một câu hỏi “Sao” dịu ngọt; màu “nắng
mới” tươi sang trong trẻo; cái màu xanh như ngọc của vườn ai, và cả sự mướt quá
của cây lá Vĩ Dạ sẽ còn làm ám ảnh lòng ta và còn làm ám ảnh biết bao bạn đọc
khác
Đề6: Lập dàn ý phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
I.
Tìm hiểu chung
- Xuân Diệu
là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới. Nội dung thơ thể hiện sự rạo rực đắm
say
- Đây là bài
thơ thể hiện đầy đủ và đậm đà nhất phong cách thơ Xuân Diệu: hồn thơ nồng nàn
sôi mổi, mạnh mẽ đến cuồng nhiệt – hồn thơ của tình yêu cuộc sống, niềm khát
khao giao cảm với đời. Điều ấy được biểu hiên xuyên suốt bài thơ với những hình
ảnh thơ táo bạo, cách diễn đạt lạ, mới, nhịp điệu thơ sôi nổi khẩn trương
- Bài thơ Vội vàng, nhà thơ diễn tả tình yêu cuộc
sống bằng ngôn ngữ của tình yêu. Thứ ngôn ngữ ấy khiến tình cảm nhà thơ
vừa đắm say lại rất trần thế.
II. Phân tích
1. 4 câu đầu
- 4 câu thơ
ngắn gọn, vang ngân một cách đĩnh đạc trang trọng:Tôi muốn…
- Người đọc
bị bất ngờ bởi ý thơ táo bạo. Có cảm giác như thi nhân đang đi giữa đất trời
với nắng và gió, với hương thơm và cỏ lạ và muốn tận hưởng tất cả.
-Hai điệp
ngữ “tôi muốn” và điệp từ “cho” vừa là sự khẳng định vừa tạo âm điệu mạnh mẽ
dứt khoát và đầy khát vọng. Nhà thơ muốn giữ nắng, giữ gió, giữ hương , quà
tặng tuyệt diệu của tạo hoá ban cho con người.Nắng tắt thì ngày sẽ tàn ,gió bay
sẽ đưa hương đi, nhà thơ muốn níu giữ thời gian trở lại
- Không chỉ
mong muốn khát khao câu thơ còn chứa đựng cả sự khẩn cầu của nhà thơ: Đừng nhạt
mất- đừng bay đi. Sự khẩn cầu ấy lặp 2 lần trong đoạn như muốn diễn tả niềm
thiết tha của nhà thơ trứơc vẻ đẹp cuộc đời.
- Có lẽ hơn
ai hết nhà thơ Xuân Diệu hiểu rằng những điều ông muốn, ông khát vọng trái
ngược với qui luật khắc nghiệt của tạo hoá. Cũng như sau này khi là nhà thơ của
Cách mạng, XD đã mơ ước có trăm vạn bàn tay, có trăm vạn trái tim để ôm trọn Miền
Nam vào lòng.
-Như vậy chỉ
4 câu thơ đầu Xuân Diệu đã nói một cách đầy đủ nhất cảm xúc chủ đạo của bài thơ
: để níu giữ vẻ đẹp của trần thể, níu giữ thời gian
2. Từ câu 5 đến câu 12
-Nhà thơ
phát hiện một thiên đường trên mặt đất: bướm ong, hoa lá, cỏ cây. Đó là những hình
ảnh đẹp nhất chốn vườn trần.
- Nếu như
các nhà thơ mới khác hoàn toàn mất vị trí, định hướng trong không gian địa lí
và không gian tinh thần đi tìm niềm vui trong một thế giới khác: Chốn bồng lai
tiên cảnh hay tháp ngà tình yêu, thậm chí quay về quá khứ đắm chìm trong điên
loạn thì Xuân Diệu không chấp nhận lối thoát tiêu cực ấy, ông muốn chỉ cho
chúng ta vẻ đẹp của cuộc đời trần thế, Điệp từ “Này đây” lặp nhiều lần, vừa liệt kê vừa như bày ra trước mắt người
đọc những món ăn mà tạo hoá ban cho con người. Âm điệu “này đây” mỗi lúc một mạnh cho thấy sự hấp dẫn kì diệu, sức cuốn
hút lạ lùng của một thế giới tưởng như bình thường.
- Thế
giới ấy ngày nào ta cũng thấy , cũng qua vậy mà XD khiến chúng ta phải ngạc
nhiên như lần đầu mới gặp. Xuân Diệu đã nhìn thời giaan ấy bằng cặp mắt “xanh non, biếc rờn” để khám pha những bí
ẩn của nó. Thiên đường ấy giàu có và phong phú vô cùng: Đồng nội xanh rì, cành
tơ phơ phất,ánh sáng ..
Mỗi hình ảnh,
sự vật đều toát lên sự sống mãnh liệt, sự trẻ trung hấp dẫn đồng thời thể hiện
cái nhìn đầy thiện cảm, háo hức của nhà thơ trước cuộc đời trần thế.
- Xuân Diệu
cũng mang cái buồn chung của thế hệ các nhà thơ mới, nhưng Xuân Diệu khác họ ở
chỗ không nhìn thời gian màu tang tóc buồn thương, trước sau Xuân Diệu
vẫn là người yêu cuộc sống, và nếu có buồn chăng nữa cũng là bởi không được
hưởng tất cả vẻ đẹp cuộc sống mà thôi.
- Đoạn thơ
với hàng loạt những từ gợi cảm :Ong bướm, yến anh, tuần tháng mật , khúc tình
si, cặp môi gần. XD nhìn cuộc sống bằng cặp mắt của tình yêu. Ong bướm, yến anh
là những hình ảnh tượng trưng cho tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Tuần trăng mật
gợi sự sung mãn, tròn đầy của hạnh phúc. Khúc tình si là cụm từ gợi được nhạc
điệu say mê, du dương đắm đuối của tình yêu.
Xuân Diệu
nói về tình yêu bao giờ cũng như một thứ tình cảm mãnh liệt, tuyệt diệu nhất.
Nó vừa trần thế, vừa tinh khôi, vừa đồi hỏi một cách vô biên vừa tận hưởng
tuyệt đích. Còn trong bài thơ này, nói về cuộc sống bằng ngôn ngữ tình yêu, Xuân
Diệu như muốn nhắc nhở chúng ta một diều vô cùng quan trọng: cuộc sống cũng đẹp đẽ, đắm say như tình yêu
đôi lứa. Nói một cách khác, trong thiên đường nơi trần thế, tuổi trẻ tình yêu
vẫn là thứ đáng trân trọng nhất.
- Với nhà
thơ, thiên đường trần thế lúc nào cũng là mùa xuân. Thời khắc lưu lại nhiều
hương sắc xuân nhất chính là tháng giêng: Tháng
giêng ngon như một cặp môi gần. Mùa xuân, tháng giêng đồng nghĩa với sự trẻ
trung, ắp đầy hạnh phúc. Cách so sánh ở đây thật táo bạo, mới mẻ. Mùa xuân là
từ dùng chỉ thời gian. Thời gian được coi như có hình khối đường nét rõ ràng.
Hơn thế nữa lại là hình ảnh tượng trung cho một tình yêu yêu rõ ràng nhất. Thêm
vào đó tháng giêng còn được cảm nhận bằng vị giác: ngon được cảm nhận bằng khoảng cách: gần. Phải chăng về điểm này mà Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới
nhất trong các nhà thơ mới. Và như vậy, thời gian đã được Xuân Diệu tình yêu
hoá, cuộc sống đã được tình yêu hoá sao cho tràn trề hạnh phúc. Cuộc sống, tình
yêu ở đâyy có hình khối đường nét cụ thể, có hương vị ngọt ngào say đắm. Chỉ có
Xuân Diệu mới có cách cảm nhận độc đáo, riêng biệt như vậy. Trong thơ xưa, thi
nhân thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của mọi vẻ đẹp, trong đó có vẻ đẹp
con người. Với Xuân Diệu thì ngược lại. Ông lấy vẻ đẹp của con người trần thế
làm chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp. Chỉ có con người là lung linh, nhất là đẹp nhất.
Đây chính là quan niệm tiến bộ đầy chất nhân văn của nhà thơ về nhân sinh, về tình
yêu và hạnh phúc. Vẻ đẹp ấy của con người như lan toả ra cỏ cây, hoa lá, chim
muông. Có thể nói, thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu lúc này đã được con người
hoá: ánh sáng chớp hàng mi, yến anh say khúc tình si… Mọi sự cựa quậy, sinh sôi
của tạo vật gắn liền với sinh hoạt của con người. Sức xuân như đang trào dâng
mãnh liệt nhất ở mọi lúc mọi nơi, mọi cảnh mọi vật và đặc biệt ở trong con
người.
- Lắng sâu
trong âm hưởng thơ là hồn thi nhân sung sướng mãn nguyện, mở rộng tấm lòng đón
nhận tất cả những âm vang của đời. Mọi âm sắc, đường nét như được tận hưởng
trọn vẹn bởi tấm lòng khao khát yêu cuộc sống của nhà thơ. Tác giả viết: Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Câu thơ tự nó đã tách ra làm đôi. Nửa thứ nhất vơi ba âm tiết vanh lên và khép
lại cả thế giới thần tiên mà nhà thơ đã diễn tả ở trên. Nửa còn laị mở ra một
trạng thái khác mà ranh giới chính là từ nhưng. Sau từ đó chính là một nốt lặng
diễn tả cái sững sờ, bối rối của nhà thơ. Cái vội vàng một nửa ấy vừa là ham
muốn được tận hưởng, vừa diễn tả một chút lo sợ, một chút hãi hùng. Nửa câu thơ
ấy như là một ciếc bản lề đẻ nối tiếp ý thơ của phần sau. Xd đã tự đặt ty, cuộc
sống của mình trong mối quan hệ với thời gian, đời người và thực sự cảm thấy
hốt hoảng, bất lực. Tgian vẫn tuần hoàn, đời người một đi ko trở lại, đặc biệt
là tuổi xuân càng không hai lần thắm lại. Từ nỗi lo lắng đến bàng hoàng này,
nha thơ đã lý giải sự cuống quýt, vội vàng của mình ở khổ thơ sau. Và nếu xem
bài thơ có kết cấu luận đề, thì câu thơ: Tôi
sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa… là một phân giải giữa nguyên nhân và hệ
quả. Vì quá đắm say cuộcđời mà cuộc đời không thể chờ đợi bất cứ điều gì thì
chỉ còn một cách tận hưởng cho no nê, đã đầy tất cả mọi hương thơm trái ngọt mà
tạo hoá ban tặng. Toàn bộ phần còn lại của thi phẩm minh chúng cho nhan đề của
chính nó.
3.Từ câu 13 đến câu 30
- Diễn tả
tâm trạng hoài xuân của thi nhân
- Sống giữa
mùa xuân, cuộc đời tuổi trẻ, thiên nhiên mà lòng ko hề thanh thản: Tôi không
chờ nắng hạ mới hoài xuân ….
Đang giữa
ngày xuân nhưng thời gian vẫn nghĩ rằng đến một ngày xuân qua hạ tới. Có nghĩa
là nhà thơ luôn đăth mình trong dòng chảy bất tận của thời gian mà ham muốn, mà
yêu cuộc sống, mà ngẫm mghĩ về cái hữu hạn của đời người.
- Với nhà
thơ khát vọng níu giữ thời gian chỉ là khát vọng. Nhà thơ luôn cảm thấy bước đi
của t/g lạnh lùng và khắc nghiệt: xuân tới, xuân qua, xuân non, xuân già. Và cả
mùa xuân của đời người cũng đương qua. Điều này cho thấy trong thơ Xuân Diệu
luôn có một quan niệm mới về thời gian. thời gian không tuần hoàn, không tĩnh
lặng như trong thơ trung đại “Ngán nỗi
xuân đi xuân lại lại”. Thời gian là dòng chảy vô cùng vô tận. Không ai có
thể uống nước 2 lần trên một dòng sông. Đời người cũng vậy, chảy trôi trong sinh - lão – bệnh – tử. Đời người thật
hữu hạn trước cái vô cùng vô tận của thời gian.
- Xuân Diệu
không tin và thuyết nhân quả và hồi sinh của đạo phật. Ông luôn ám ảnh bởi mùa
xuân sẽ qua đi không bao giờ trở lại. Con người sẽ vĩnh viễn trở về cát bụi,
cảm nhận điều đó, nhà thơ quay ra hờn trách tạo hoá: “Nói làm chi…còn tôi mãi”
Sự trách móc
ấy thực ra là những cảm xúc của nhà thơ đã lên tới đỉnh điểm với khát vọng muốn
phá tung tất cả mọi giới hạn của đời sống và cả những quy luật khắt khe
của đời sống để trường tồn, bất tử .
- Trong cảm
hứng nuối tiếc xót xa ấy, nhà thơ tiếp tục diễn tả tâm trạng hoài xuân của mình:
Còn trời đất… Phải chăng …sắp sửa.
Thế giới đang
rộng mở trước mắt chúng ta với núi sông, lá biếc, gió xinh, hoa nở chim
hót..Nhưng giờ đây không phải là bức tranh sự sống, nhà thơ cảm nhận thiên
nhiên, đất trời tạo vật cũng có tâm trạng như chính mình. Chúng cũng linh cảm
thấy sự chia phôi, sự tiễn biệt, phai tàn sắp sửa xảy ra. chúng dường như cũng
đang hờn giận trách móc tạo hoá.
Cái nhìn
thời gian cái nhìn cảnh vật xung quanh cho thấy nỗi sợ hãi trong tâm hồn nhà
thơ. Nó không còn mơ hồ nữa mà trở nên rõ nét, rõ ràng,và hùng hồn hơn. Nỗi sợ
của con người ham sống.
4. Phần còn lại của bài thơ Vội Vàng.
-
Giọng điệu của đoạn thơ đột ngột thay đổi. ở đoạn trên là âm hưởng trầm buồn
nay trở nên cuống quýt, vội vã, sôi nổi.
- Cảm
xúc thơ ở đây là hệ quả tất yếu của những nhận thức về tgian ở đoạn trên. Đặt
mình giữa dòng chảy của tgian mà tiếc cho cuộc đời không thể kéo dài, đồng thời
Xuân Diệu cũng không muốn một cuộc sống vô nghĩa. Nhà thơ như giục giã chính
mình: Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm.
Mau đi thôi để chạy đua với thời gian,
chạy đua cùng tuổi trẻ cùng màu xuân của cuộc đời. Nhà thơ sợ chiều tà ngả
bóng, sợ tuổi già, sợ tuổi xế chiều một mình với chiếc bóng âm thầm lặng lẽ,
sống mà chỉ như tồn tại, ko hưong sắc, không tình yêu… Cảm xúc này còn được Xuân
Diệu thể hiện ở nhiều bài thơ khác, nhất là những bài thơ nói về tình yêu.
“Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ
Em em ơi tình non sắp già rồi”.
“Mau lên chứ vội vàng lên với chứ
Em ơi em anh rất sợ ngày mai”.
Khát vọng cháy bỏng ấy đã khiến nhà thơ tự đề cho mình một phong cách sống:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Đây là một
tuyên ngôn sống đúng nghĩa với với tâm hồn Xuân Diệu. Đây cũng là phong cách
riêng của Xuân Diệu trong thi ca.
Ba chữ
Ta muốn ôm được tách ra thành một
dòng thơ rất ngắn nhưng lại như một sự dồn nén cảm xúc. Giọng thơ cũng hết sức
trang nghiêm, đĩnh đạc nhưng vẫn không giấu nổi cảm xúc dâng trào. Vẫn là cảm
xúc dâng trào nhưng tác gỉa không dùng đại từ Tôi mà dùng chữ Ta. Cái
tôi cá nhân đã trở thành cảm xúc chung của cả một thế hệ. Mặt khác cái tôi ấy
dường như còn nhỏ bé, cô đơn nên Xuân Diệu muốn có cái ta mênh mang rộng lớn.
Dù như vậy tác giả vẫn thấy chưa thật đủ. Dù đã hoà mình vào thế giới của
đam mê, của đắm say, rạo rực, đang vận động ko ngừng cùng nhịp sống Xuân Diệu vẫn
còn khao khát. Cái tham đầy cá tính và nhân bản ấy là biểu hiện của một ý thức
đúng đắn về cuộc sống.
- Khi
hiểu giá trị đích thực của cuộc sống Xuân Diệu muốn dang đôi tay bé nhỏ của
mình đê ôm trọn yêu thương của đời. Khát vọng lớn lao ấy được nhà thơ thể hiện
qua điệp từ Ta muốn và mỗi lần nhắc
lại là một lần cảm xúc dồn nén hơn, dâng trào hơn.
Bình luận
Nhà thơ Thế
Lữ, trong lời Tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở
giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” .
Đã hơn hai mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng “tấm lòng trần gian” của ông dường như
vẫn còn ở lại. Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học
sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm
với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất trời,
con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì!
Làm
thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi
ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam
1932 – 1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các
nhà thơ mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân
chín…”, một Nguyễn Bính với “mùa xuân là cả một mùa xanh…”. Nhưng có lẽ Xuân
Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm
say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi
hai mươi căng nhựa sống.
Cái
động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái của Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ
hồi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say
đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuốn quýt”. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc
trưng của mình cái tên Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự họa của
Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình.
Thực ra, cái
điệu sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời
gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là một kết cục không
tránh khỏi mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao diệu kỳ. Mà sống là phải
tận hiến và tận hưởng! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết
mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với
thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ này được viết ra từ cảm
niệm triết học ấy.
Thông
thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ
nghiêng về cảm xúc rất “ngại” đi cùng chính luận. Ấy thế nhưng nhu cầu phô bày
tư tưởng, nhu cầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân
Diệu hiển nhiên là loại thơ xúc cảm. Nhưng đọc kỹ sẽ thấy rằng thơ Xuân Diệu
cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc làm nên cái nội dung hình ảnh, hình
tượng sống động như mây trôi, nước chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường
như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên cái tứ của thi
phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. Vội vàng cũng thế.
Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột cuốn theo bao hình ảnh thi ca như gấm
như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ,
trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ
đang minh họa cho triết học. Mà đó chính là minh triết của một hồn thơ.
Mục đích lập
thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của Vội vàng. Thi phẩm
khá dài nhưng tự nó hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa
hai phần đặt vào ba chữ “Ta muốn ôm”. Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do
vì sao cần sống vội vàng. Phần dưới là bộc lộ cái hành động vội vàng ấy. Nói
một cách vui vẻ: trên là lý thuyết, dưới là thực hành! Điều rất dễ thấy là thi
sĩ chọn cách xưng hô cho từng phần. Ở trên, xưng “tôi”, lập thuyết đối thoại
với đồng loại. Ở dưới, xưng “ta”, đối diện với sự sống. Phần luận lí có xu
hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ dào dạt, sôi nổi đã xóa
mọi cách ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và
truyền cảm.
III. Kết luận
Có
thể nói Xuân Diệu qua bài thơ này không chỉ "sống" hay "ham
sống" mà ông "say sống". Sống mãnh liệt, hối hả kẻo nữa lại tiếc
nuối - Đó là một nhân sinh quan lành mạnh. Nó khác với sự nguội lạnh, hờ hững,
lạt lẽo. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước "thanh sắc trần gian" một
ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống.Sống là hạnh phúc. Muốn đạt
tới hạnh phúc phải sống vội vàng. Thế là, vội vàng là cách đến với hạnh phúc,
là chính hạnh phúc, và hình như cũng là cái giá phải trả cho hạnh phúc vậy ! Ta
hiểu vì sao khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ.
Đề 7: Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
HƯỚNG DẪN
I. MỞ BÀI
Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ.
Ông được mệnh danh là “ông hoàng của thi ca tình yêu”. Trước cách
mạng, với hai tập “Thơ Thơ” và “Gửi hương cho gió”, Xuân Diệu đã chính
thức trờ thành “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Bài thơ
“Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ” là bài thơ rất tiêu biểu cho phong
cách thơ tình yêu của Xuân Diệu viết về mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu. Tác
phẩm để lại dấu ấn về nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu
là đoạn thơ sau đây:
“Tôi muốn tắt nắng đi
…
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
II. THÂN BÀI
1. Khái
quát: Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ”, xuất bản năm 1938 là
bài thơ tiêu biểu của tập thơ nói riêng, của hồn thơ Xuân Diệu nói
chung. Cả bài thơ thể hiện một nhân sinh quan mang ý nghĩa nhân bản sâu
sắc. Thiên đường là ở ngay trên mặt đất. Vì vậy hãy yêu mến, hãy
gắn bó và sống hết mình với cuộc sống thực tại đầy tươi vui này.
Nó bộc lộ niềm ham sống, khát sống, tận hưởng đến vô biên và tuyệt
đích của thi nhân:
2.
Đoạn thơ mở đầu bằng bốn câu thơ ngũ ngôn chứa đựng những khát vọng
mãnh liệt và táo bạo của thi nhân:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Bốn câu
đầu có lẽ là độc đáo nhất trong bài thơ vì chỉ riêng nó là thể ngũ ngôn. Nó là
thể thơ phù hợp cho việc thể hiện những cảm xúc vồ vập của Xuân Diệu
bởi câu thơ ngắn lại giàu nhịp điệu. Điệp ngữ “tôi muốn” được nhắc
lại hai lần cùng với đó là hai động từ mạnh “tắt, buộc” đã làm
nổi bật khao khát của nhà thơ. Đó là khao khát “tăt nắng, buộc gió”
để giữ lại màu hoa “Cho màu đừng nhạt mất” để giữ lại sắc hương “
cho hương đừng bay đi”. Đó là khát vọng chiếm đoạt quyền năng của tạo
hóa để buộc hương hoa tươi thắm mãi bên đời. Ngông cuồng hơn cả là
nhà thơ muốn vũ trụ ngừng quay, thời gian dừng lại để thi nhân tận
hưởng được những phút giây tuổi trẻ của đời mình. Bởi nhà thơ sợ “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”,
sợ ”đời trôi chảy, lòng ta không
vĩnh viễn”. Suy cho cùng khát vọng ấy của Xuân Diệu thật ngông
cuồng nhưng cũng rất hợp lí.
3. Bảy
câu thơ tiếp theo, với tâm hồn khát sống, khát yêu, tận hiến, tận
hưởng và khát khao giao cảm mãnh liệt, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ
đẹp xuân tươi phơi phới, đầy tình tứ ở những cảnh vật thiên nhiên quen
thuộc quanh ta:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Bảy
câu thơ trên là một bước tranh thiên nhiên mùa xuân được vẽ nên bằng
một hồn thơ có “Cặp mắt xanh non biếc rờn”. Cảnh vật đang vào độ
thanh tân, diễm lệ. Bức tranh hội tụ đầy đủ hương thơm, ánh sáng và
màu sắc, âm thanh ( đây chính là phép tương giao giữa các giác quan mà
Xuân Diệu học được ở thơ ca phương Tây). Cảnh vật hiện lên đều có đôi,
có cặp:” Ong bướm- tuần tháng mật” ;“Hoa- đồng nội xanh rì” ;” lá-
cành tơ” ;” yến anh- khúc tình si”;…
Điệp
ngữ ”này đây” được nhắc lại nhiều lần. Từ ”này đây” lại là từ chỉ
trỏ. Xuân Diệu như đang đứng trước bức tranh và liệt kê cho ta thấy vẻ
đẹp tươi non, nõn nà của mùa xuân. Thi sĩ như uốn nói với chúng ta
rằng: ”Sao người ta cứ phải đi tìm chốn Bồng Lai Tiên Cảnh ở mãi chốn
mông lung hão huyền nào? Nó ở ngay giữa cuộc sống quanh ta”. Thiên
nhiên như một bữa tiệc trần gian đầy những thực đơn quyến rũ: Ở đó
có cảnh ong đưa và bướm lượn, tình tứ ngọt ngào như “tuần tháng mật”.
Màu hoa trở nên thắm sắc ngát hương hơn “giữa đồng nội xanh rì”. Cây
cối nảy lộc đâm chồi tạo nên những “cành tơ” với những chiếc lá tươi
non phất phơ tình tứ. Điểm vào phong cảnh ấy là tiếng hót đắm say
của loài chim yến anh đã tạo nên “khúc tình si” say đắm lòng người.
Cặp
mắt “xanh non biếc rờn” của Xuân Diệu còn mang đến cho người đọc một
nguồn năng lượng mới từ mùa xuân: ”Và này đây ánh sáng chớp hàng mi/
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa”. Ánh sáng buổi sớm mai như phát
ra từ cặp mắt đẹp vô cùng của nàng công chúa có tên là Bình Minh.
Nàng vừa tỉnh giấc nồng suốt một đêm qua, mắt chớp chớp hàng mi rồi
bừng nở ra muôn vàn hào quang. Chính ánh sáng ấy đã tưới lên cảnh
vật càng làm cho bức tranh thiên nhiên giống như một nguồn nhựa sống
chảy dào dạt xung quanh cuộc sống của con người. Thế mới hiểu những
khao khát của Xuân Diệu là đúng:
“Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất”
Hoặc có khi ông khao
khát đến cháy bỏng:
“Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời”
Xuân
Diệu đã kết lại bức tranh mùa xuân bằng một câu thơ đầy gợi cảm
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Đây là một cách so sánh đầy
gợi cảm, có một chút nhục cảm. Tháng giêng thanh tân, diễm lệ, đầy
ánh sáng, màu sắc, âm thanh và hương thơm trờ thành “cặp môi gần” rất
“ngon, ngọt” của người tình nhân. Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm.
Tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất của đời người. Và chắc chắn phần ngon
nhất của người thiếu nữ là bờ môi chín mọng kia.
Ở đây,
trong sự so sánh giữa thiên nhiên và con người, Xuân Diệu đã mang đến
cho người đọc một quan niệm nghệ thuật về con người rất mới mẻ. Thơ
ca cổ điển thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp. Mọi cái
đẹp trong vũ trụ phải đem so sánh với cái đẹp của thiên nhiên. Bởi
vậy khi miêu tả nét đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du đã lồng vào biết bao
nhiêu cái đẹp của thiên nhiên:
“Vân xem trang trọng khác vời/Khuôn trăng đầy đặn
nét ngài nở nang/Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc tuyết
nhường màu da”. Còn Xuân Diệu đưa ra
một tiêu chuẩn khác: con người mới là chuẩn mực của cái đẹp trong
vũ trụ này. Bởi con người là tác phẩm kì diệu nhất của tạo hóa.
Nên mọi vẻ đẹp trong vũ trụ phải đem so sánh với vẻ đẹp của con
người. Quan niệm nghệ thuật này là một đóng góp mới mẻ của
4. Hai câu thơ cuối là
tâm trạng của nhân vật trữ tình:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Trong một câu thơ mà thi
sĩ có hai tâm trạng “Tôi sung sướng” - “Nhưng vội vàng một nửa”. Dấu
chấm ở giữa câu đã phân tách nhà thơ thành hai nửa: nửa sung sướng
và nửa vội vàng. Tâm trạng “sung sướng” là tâm trạng: ” hạnh phúc,
lạc quan, yêu đời, tươi vui đón nhận cuộc sống bằng tình cảm trìu
mến, thiết tha gắn bó. Còn “vội vàng” là tâm trạng tiếc nuối bởi
nhà thơ sợ tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới. Vì thế dù đang sống
trong mùa xuân nhưng thi nhân đã cảm thấy tiếc nuối mùa xuân ngay khi
đang ở trong mùa xuân “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
5. Tổng kết nghệ thuật:
Đoạn thơ để lại dấu ấn nghệ thuật sâu sắc. Thể thơ tự do, sử dụng
nhiều điệp ngữ, điệp từ, so sánh ẩn dụ… Ngôn ngữ thơ chọn lọc. Tất
cả đã tạo nên một đoạn thơ hay mang đậm phong cách thơ Xuân Diệu.
III. KẾT BÀI
Tóm lại, đoạn thơ ta vừa
phân tích ở trên là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ “Vội vàng”. Bằng ngôn ngữ
rất đỗi Tây phương, nhưng tình cảm của nhân vật trữ tình lại rất gần gũi, thân
quen. Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một giọng thơ lạ, một cách cảm nhận
về mùa xuân rất đỗi nồng nàn. Qua đó thấy được lòng yêu đời và khát vọng sống
mãnh liệt của thi nhân. Đúng như nhà phê bình Thế Lữ đã nhận xét “Như một tấm
lòng sẵn sàng ân ái, Xuân Diệu dang tay chào đón nhựa sống rào rạt của cuộc
đời”.
Đề 8: Một trong những nội dung bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) là “ tiếng lòng của một con người tha thiết yêu
đời, yêu cuộc sống”. Anh / chị hãy phân tích đoạn thơ sau để làm rõ nhận định
trên.
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
(Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử)
Đáp án - Hướng dẫn làm bài
I1. Mở
bài
- Hàn Mặc Tử
là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ Mới .
- Vài nét về
bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
- Dẫn nhận
định và đoạn thơ
B. Thân bài
a. Giải thích vấn đề:
- Đây thôn Vĩ Dạ chính là một
tình yêu tuyệt vọng đối với cuộc sống. Điều này đã trở thành ngọn nguồn cảm xúc
làm nên bài thơ. Cuộc sống trong cái nhìn của Hàn Mặc Tử chính là sự sống nói
chung, sự sống thuộc về cảnh sắc thiên nhiên, con người tình yêu đôi lứa.
- Vào thời điểm mà Hàn Mặc Tử đang trải qua cơn bạo bệnh, thì như một
nghịch lí càng tiến về phía cõi chết, nhà thơ càng yêu cõi sống, yêu một cách
cuồng si, đau đớn và tuyệt vọng. Đó chính là một tình yêu lớn đối với sự sống
bất tử.
b. Phân
tích khổ thơ
Nỗi đau đời người, nỗi đau tình người, khát
vọng sống, khát vọng tình yêu dâng lên ở đỉnh cao trong khổ thơ cuối của bài
thơ.
Khổ 3
nói tới hình bóng một giai nhân trong mộng ảo:
Mơ khách đường xa, khách đường xa.
Giấc mơ nhiều khi rất đẹp để rồi nuối tiếc mãi khi
tỉnh dậy, không phải là hiện thực. Giấc mơ có khi lúc tỉnh chẳng bao giờ nghĩ
tới, thật khủng khiếp! Giấc mơ đa phần được tạo lập từ sự nghĩ nhiều, cảm nhiều
về một việc gì đó, một người nào đó. Giấc mơ của thi nhân là một giấc mơ đẹp mà
buồn, tiếc vô cùng. Trong giấc mơ, giai nhân hiện ra đấy mà thấy xa vời vợi.
Điệp ngữ “khách đường xa, khách đường xa” đẩy người mơ và giai nhân cách
xa nhau trong cái khoảng không gian ngày càng vô vọng. Mong chờ khát vọng, đợi
trông càng nhiều thì bóng hồng giai nhân càng mờ xa, mất hút.
Cái sắc trắng của áo trong câu thơ: “Áo em trắng
quá nhìn không ra” đâu còn là sự cảm nhận của thị giác mà là sự cảm
nhận của cảm giác, bởi bóng hình giai nhân đâu có hiển hiện thật rõ trong giấc
mơ mà chỉ hiển hiện bồng bềnh, bảng lãng…Nhưng mà cái sắc trắng của áo em vẫn
cứ mãi mãi khắc trọn trong đáy sâu tâm hồn thi sĩ, yêu và thiết tha với nó muôn
vàn. Vì nó mà sống, mà nhớ, mà thương, mà ao ước ngưỡng vọng đến đam mê
cả lúc tỉnh lẫn khi mơ. Rồi lại cũng vì cái sắc trắng ấy của áo em mà thi nhân
đau đớn xót xa vô cùng. Sắc áo trắng không còn là cái vật thể bên ngoài của
hình hài em mà là biểu tượng của đáy sâu tâm hồn em vậy. “Kim mò đáy đại
dương”, “Áo trắng quá, anh nhìn không ra”, xót đau biết nhường nào!
Sao có thể hiểu thấu lòng em, biết tim em đập theo nhịp nào? Có thổn thức hòa
điệu trong nhịp đập với trái tim thi nhân? Làm sao mà biết được – Bi kịch cuộc
đời, tình yêu dồn nén tới đỉnh cao trào. Sự cắt nghĩa của thi nhân trong hai
câu thơ kết bài thơ về cái nhìn “không ra” của mình:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
cũng chỉ là một sự cắt nghĩa phỏng đoán, hoài nghi,
giả định mà không hề khẳng định.
Có cả hai nguyên nhân : do “Sương khói mờ nhân ảnh”
hay do “sự bí ẩn của trái tim” mỹ nhân sau tà áo trắng?
Trong hai nguyên nhân ấy, nguyên nhân nào là chủ yếu?
Mối quan hệ của hai nguyên nhân đó thế nào?
Tất cả đều do thi nhân tưởng thế, nghĩ thế và tự vấn
mình như thế! Hư hư thực thực không biết nguyên do nào là chính. Và vì hư thực
như thế nên cõi lòng càng bâng khuâng, day dứt, dằn vặt đau đớn. Sương khói của
thiên nhiên xứ Huế, thật thế ư làm mờ ảo bóng hình giai nhân! Chắc là không
phải. Có thể một thứ “sương khói” khác ảo mờ giăng màn trước cõi lòng
thi nhân - thứ sương khói của sự chênh vênh, chới với giữa biển đời mênh mông
mà thi nhân đang tìm cách bấu víu để tồn tại. Và chính ở cái thời khắc chới với
ấy, rộn lên như dồn cuốn cảm xúc và tinh lực để bật ra một câu hỏi chủ đạo nhất
biểu hiện nỗi đau lớn, niềm khát vọng lớn của thi
nhân:
Ai biết tình ai có đậm đà?
“Ai” và “ai” trong câu thơ, lối nói bâng
qươ – cách biểu hiện của đại từ phiếm chỉ như không chỉ vào một đối tượng
cụ thể nào. Sự thực không phải thế. Người đọc thơ Hàn Mặc Tử có thể nhận ra
trong cái nét tinh tế ấy, “ai” thứ nhất chính là thi nhân - và cũng là
những con người yêu đời, yêu người, đau đời, đau tình người như thi nhân; “ai”
thứ hai trong câu thơ là giai nhân, những giai nhân – biểu tượng của tình yêu,
của cái đẹp, của cuộc đời. Câu hỏi chưa có lời đáp gieo trong lòng người đọc sự
hòa điệu tâm trạng day dứt của thi nhân - Nỗi buồn đau lan tỏa, tràn đầy, thấm
vào từng tế bào, từng mạch máu đến quằn quại, nhức nhối. Đây là câu hỏi
của trái tim và đó cũng là câu hỏi muôn thuở của tất cả những người đang yêu
càng thiết tha, càng day dứt, dằn vặt:
“Hoa ơi sao chẳng nói?
Anh ơi sao lặng thinh?
Đốt lòng em câu hỏi
Yêu em nhiều không anh?”
(Xuân
Quỳnh – Mùa hoa rơi)
c. Bình luận
Đây thôn Vĩ Dạ - ba khổ thơ - ba câu hỏi - Một nỗi
đau - Nỗi đau cứ tiếp nối, chất chồng, đè nặng lên nhau. Hình ảnh
thơ, giọng điệu, bút pháp có thể thay đổi và sự chuyển đổi tứ thơ bất ngờ, đột
ngột chỉ càng chứng tỏ một tài thơ điêu luyện bậc thầy. Mạch tứ phát triển nhất
quán, chặt chẽ tạo cho sự biểu hiện tư tưởng nghệ thuật ngày càng hoàn thiện
trong sự tinh tế và độc đáo. Đi suốt bài thơ, thi nhân hiện hữu với tư cách là
một con người tha thiết yêu cuộc sống, tha thiết yêu đời, tha thiết yêu người,
yêu một tình yêu và cũng vô cùng tha thiết mong được cuộc đời, con người, tình
yêu đáp lại. Khát vọng ấy là đẹp đẽ và cao cả vô cùng, nhân văn vô cùng!
Đó là một nguyên cớ để ta yêu bài thơ và quý trọng Hàn
Mặc Tử.
Nhưng ta đến với Đây thôn Vĩ Dạ, đến với Hàn Mặc Tử không phải đi trên con đường phẳng
thênh thang đầy hương sắc của hương đồng cỏ nội. Con đường ta đến với Đây thôn Vĩ Dạ nói
riêng, đến với thơ Hàn Mặc Tử nói
chung là con đường hòa điệu xót xa một nỗi đau trĩu nặng, tê tái, khắc khoải
đến rợn người. Biết là phải cùng hành trình với thi sĩ trên con đường như thế
mà ta chẳng chối từ. Càng yêu trọng một đời tài hoa mà bất hạnh, ta càng trân
trọng nâng niu từng tác phẩm, từng dòng thơ mà ở đó là sự kết tụ tài năng sáng
tạo của một bậc thầy, kết tụ máu thịt, tâm linh và cả sinh mệnh nữa của một hồn
thơ mang cái tên Hàn Mặc Tử !
3. Kết bài
Cũng như làng cảnh, sông nước, vầng trăng, con thuyền, bến bãi kia không
bao giờ thuộc về thi sĩ, giữa thi sĩ và chúng là một khoảng cách tuyệt vọng,
thì với cô gái ấy cũng y như thế. Rơi vào tuyệt vọng nhưng tình yêu không chết
ngược lại tình yêu càng trở nên da diết, đau đớn... Một người yêu sự sống, khát
sống như thế mà sự sống trong anh đang dần tắt. Vì là tiếng của tình yêu tuyệt
vọng, nên Đây thôn Vĩ Dạ mang âm điệu
nghẹn ngào, khắc khoải.
Đề
9:
Một
trong những nội dung của bài thơ Vội vàng là “Cảm nhận về thiên nhiên, cuộc sống với những quan niệm mới mẻ của Xuân
Diệu”. Phân tích đoạn thơ sau để làm rõ nhận định trên
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi
mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
(Vội vàng- Xuân Diệu)
Hướng dẫn
A. Mở bài
- Khái quát vài nét về tác giả Xuân Diệu
-
Dẫn nhận định
-
Dẫn đoạn thơ
B. Thân bài
a. - Khái quát bài thơ Vội vàng
b. - Khái quát nội dung nhận định
Quan
niệm mới mẻ cua Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc
-
Xuân Diệu yêu cuộc sống nhưng đó là cuộc sống nào? Đó là cuộc sống trần thế
xung quanh nhà thơ. Nó thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ của nhà thơ, như
Hoài Thanh đã nhận xét: “Với Thế Lữ thi
nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xa xưa. Xuân Diệu đốt cảnh
Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới”(Thi nhân Việt Nam). Chính vì yêu cuộc sống
đời thường quanh ông, Xuân Diệu đã phát hiện ra trong cuộc sống đó những nét đẹp
thật tinh tế, đáng yêu, giàu chất thơ. Một quan niệm như thế ở một nhà thơ lãng
mạn thật mới mẻ và đáng trân trọng.
-
Xuân Diệu yêu tuổi trẻ và biết quý tuổi
trẻ của mình bởi đây là quãng thời gian đẹp và đáng sống nhất, có nhiều hạnh
phúc nhất của cuộc đời một con người.
-
Xuân Diệu quan niệm hạnh phúc không ở đâu xa (hoặc ở một cõi khác) mà chính là ở
quanh ta, ở sự sống quen thuộc của trần thế khi được cảm nhận một bức tranh
thiên nhiên đẹp của hoa lá đồng nội, của ong bướm, chim chóc,.. Vì vậy, phải biết
giữ lấy hạnh phúc, giữ lại những vẻ đẹp của cuộc sống cho mình.
Chính
vì thế, nhà thơ đã có một cách sống vội vàng để tận hưởng hạnh phúc của tuổi trẻ,
của mùa xuân.
c.
Phân tích, chứng mính
d.
Bình luận vấn đề
C.
Kết bài: Nhận xét chung về cách thể
hiện nội dung tư tưởng của Xuân Diệu trong đoạn thơ.