CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN
TRONG “KHỐI VUÔNG RUBIC” CỦA THANH THẢO
*****
1. Thanh
Thảo và thơ
1.1. Thanh
Thảo - sự xuất hiện và tự khẳng định
Vào cuối những năm bảy mươi, các nhà thơ trẻ xuất hiện từ đầu
kháng chiến chống Mỹ đã dần tự ổn định phong cách của mình và đang có những
hướng thể nghiệm mới trong thơ, sau những thành tựu ban đầu. Khi tên tuổi của
Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Nguyễn Khoa Điềm v.v…đã định hình trong
tâm trí bạn đọc thì Thanh Thảo với trường ca Những người đi tới biển (1977) và tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ
(1979) mới bắt đầu xuất hiện. Sự hiện diện của Thanh Thảo trong thời điểm này
như một sự tiếp sức trong đội ngũ những người làm thơ thuộc thế hệ thứ ba trên
chặng đường sáng tạo.
Có thể nói, Thanh Thảo
vẫn tiếp tục dấu chân của những người bạn thơ đi trước, nhưng ông đã đem đến
cho người đọc một “ thực đơn tinh thần” mới mẻ và độc đáo, góp phần làm phong
phú tiếng nói của thơ hôm nay. Cũng
hướng ngòi bút vào chân dung người lính, vào hiện thực chiến trường, vào đời
sống nhân dân… nhưng Thanh Thảo không đi vào quan sát, miêu tả những sự kiện,
sự việc mà đi sâu phát hiện, khám phá chân dung tinh thần của một thế hệ người
lính trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt mà hào hùng của dân tộc.
Những trang thơ của Thanh Thảo viết từ
chiến trường miền Nam khói lửa, ác liệt, nóng bỏng, dữ dội, trần trụi đã tạo
được nét riêng:
“Cả thế hệ xoay trần đánh
giặc
Mặc quần đùi khiêng pháo lội qua sông.”
Mặc quần đùi khiêng pháo lội qua sông.”
Thơ ông là tiếng nói thâm trầm, thấm thía
về hiện thực chiến tranh, về trách nhiệm và số phận của thế hệ mình trước Tổ
quốc, nhân dân. Thanh Thảo đã viết những câu thơ bề mặt tưởng như thanh thản
nhưng thực ra đằng sau những câu chữ ấy là những suy nghĩ sâu sắc , trầm tĩnh
thể hiện sự lựa chọn triệt để: “ Người ta
không thể chọn để được sinh ra, nhưng chúng tôi chọn cánh rừng phút giây năm
tháng ấy”. Ông đã sử dụng một cách đắc địa hình tượng cỏ để ca ngợi sức
sống bền bỉ về tinh thần cũng như thể chất của người lính trẻ trong những “
thung lũng thử thách” của cuộc chiến:
“Những dấu chân rồi
lùi lại phía sau
Dấu chân in trên đời
chúng tôi những năm tháng trẻ nhất
Mười tám hai mươi sắc
như cỏ
Dày như cỏ
Yếu mềm và mãnh liệt
như cỏ.”
Từ giã hậu phương xa
xôi, dấu chân người lính in khắp nẻo đường đất nước. Gia tài người chiến sĩ
không chỉ là những gì nằm gọn trong chiếc ba lô quàng vai mà còn là tình cảm
không thể nào nguôi quên với mẹ già, với thành phố, xóm làng, với người yêu nơi
hậu phương. Kí ức về những năm tháng đã qua như những đợt sóng ngầm dội vào
trái tim người lính, tạo nên một thứ linh cảm kì diệu:
“Chiều nhạt nắng trên dòng
sông trở gió
Rừng nơi anh bỗng xao xác lạ lùng
Có phải là em gọi anh không?
Hãy tiếng những cánh buồm
mình thường theo hút mắt
Tiếng ráng đỏ cháy trầm
trong nước
Tiếng tháng năm…doi cát…cỏ
mùa xuân.”
Ta hiểu vì sao khi càng tiến gần đến mặt trận thì người lính
càng cảm thấy gắn chặt với hậu phương. Và chính vì hậu phương mà họ ra trận.
Với giọng thơ chất chứa, tác phẩm của Thanh Thảo đã thực sự đến với trái tim
bạn đọc. Đâu phải ai cũng có thể nói được một cách giản dị mà cô đúc lẽ sống
hay là một kiểu tuyên ngôn của thế hệ vừa làm thơ – vừa cầm súng:
“Bài hát của hôm nay
Thô sơ và hực sáng
Mang lẽ đời đơn giản
Nói được tới ngày mai.”
Ở đây, Thanh Thảo đã đem đến cho độc giả một chất liệu thẩm
mĩ mới của đời sống chiến trường. Nhà thơ đã khái quát được chân dung tinh thần
của một thế hệ xuất hiện vào cuối cuộc chiến bằng hiện thực tâm trạng sâu sắc.
Người đọc nhận ra cái mới của Thanh Thảo không phải là những nét trần trụi, gần
gũi của thực tế chiến trường mà cái chính là tâm hồn thơ giàu kiến thức văn
hóa, luôn khao khát tới những vấn đề mới mẻ, với những suy cảm sâu sắc, đầy dấu
ấn cá tính.
1.2. Thơ Thanh
Thảo - lấp lánh chất người, chất nhân văn
Ngay từ bài thơ đầu tiên đã cho thấy duyên may phận rủi của
Thanh Thảo đối với thơ. Bài thơ hay, đau thương mà rắn rỏi. Và ngay từ đó, Thanh
Thảo đã là Thanh Thảo rồi, nghĩa là quan niệm nhân sinh, quan niệm thơ, lối tạo
hình, giọng điệu, nhất là mối trăn trở của một đời thơ… chừng như đã định rồi:
“Hạnh phúc nào
cho tôi
hạnh phúc nào cho anh
hạnh phúc nào cho chúng ta
hạnh phúc nào
cho đất nước
những
câu hỏi chưa thể nào nguôi được
mảnh đất
hôm nay bè bạn chúng ta nằm
nơi máu
đổ phải sống bằng thực chất
nơi cao
nhất thử lòng ta yêu đất nước thử lòng ta chung thủy vô tư
nơi vỡ
vụn dưới chân ta những mảng đêm hèn nhát
những
gương mặt ngẩng lên lấp lánh chất người.”
Có người bảo Thanh
Thảo là nhà thơ công dân, chỉ trăn trở chuyện bổn phận với dân nước, thời cuộc.
Chính những tiếng thơ đầu đời còn chứa đựng những ý tưởng sâu sắc. Trước Thanh
Thảo chưa có thi sĩ nào viết ra câu thơ cuối kì lạ vậy. Người khác có thể chỉ
dừng ở “gương mặt ngẩng lên lấp lánh”.
Với họ, thế là đủ, đã là kiệm lời. Nhưng Thanh Thảo cứ phải là “lấp lánh chất người”. Chữ “chất người” không chịu nằm yên ở tầng
hàm ngôn. Nó cứ trồi lên, cứ nhất thiết phải hiển ngôn. Và nó chính là nhãn tự
của một đời thơ. Vì “chất người”
chính là nỗi trăn trở, niềm day dứt cả đời Thanh Thảo. Khi còn cầm súng, cũng
thế. Khi chỉ chuyên cầm bút thôi cũng thế:
“học làm người cao
hơn núi non”
“tôi yêu – chất người đầu
tiên
những giọt sương lặn vào lá cỏ
qua nắng gắt qua bão tố
vẫn giữ lại cái mát lành đầy
sức mạnh
vẫn long lanh bình thản
trước vầng dương.”
Rõ ràng, mối bận tâm của Thanh Thảo không bó hẹp ở chất công
dân, mà rộng lớn hơn là chất người. Căn cốt chất công dân là chủ nghĩa yêu
nước, căn cốt của chất người là chủ nghĩa nhân văn. Nhân văn là tình yêu lớn,
là chất nhân loại phổ quát của con người. Trong tình cảnh đất nước bị đe dọa,
có thể chất công dân là phần nổi bật trong con người, thậm chí, đồng nhất với
chất người. Song trở về đời thường muôn thuở, chất công dân chỉ là tử số trên
mẫu số lớn là chất người.
Như thế, quan tâm đến chất người là quan tâm trực tiếp đến vẻ
đẹp nhân văn, là tiếp cận con người trên tinh thần nhân văn chủ nghĩa. Thêm một
nhà thơ chân chính xuất hiện là một tinh thần nhân văn mới nào đấy lên tiếng.
Đó là qui luật và qui luật ấy không ngoại trừ Thanh Thảo.
Nhưng, có nhà thơ nào lại chẳng nói đến chất người, dù nhiều
dù ít. Dừng ở hai chữ “chất người”
rất chung đó thôi, làm sao đủ hình dung Thanh Thảo! Vậy là cần đi tiếp: “ chất người” mà Thanh Thảo quan niệm là
gì? Cũng ngay trong thi phẩm đầu tay kia, dường như đã có câu trả lời:
“Chúng tôi không muốn
chết vì hư danh
không thể chết vì tiền bạc
chúng tôi xa lạ với
những tin tưởng điên cuồng
những liều thân vô
ích
đất nước đẹp mênh mang
đất nước thấm tự nhiên đến
tận cùng máu thịt
chỉ riêng cho người, chúng
tôi dám chết!
đêm nay ai cầm tay nhau vào
tiệc cưới
ai thức trắng lội sình
ai trầm ngâm viết những câu
thơ thông minh
ai trả nghĩa đời mình bằng
máu
máu đỏ thật không ồn ào
máu lặng lẽ ướt đầm ngực áo.”
Day trở mà quyết liệt đến thế này chỉ có thể là tiếng nói khi
cuộc chiến đã vào hồi khốc liệt nhất. Không còn bồng bột nông nổi, không thể
đơn giản vô tư như hồi đầu. Người lính quí vô ngần sinh mệnh bản thân, nhưng
vẫn sẵn sàng xả thân. Xả thân lặng lẽ. Không phải vì vinh quang hay cuồng tín
mà chỉ vì nghĩa lớn, chỉ để “trả nghĩa
đời mình bằng máu”, thế thôi. Nghĩa, đó là lẽ sống, lẽ chết, lẽ đời của họ.
“Nghĩa khí” là bản tính, là phẩm giá,
là sức mạnh của họ. Mẫu số chung của “chất
người” ở những con người ấy chính là “nghĩa
khí”. Bởi thế, tuy là giải phóng quân nhưng gọi họ là “chiến sĩ” thì không hợp. Phải gọi là “nghĩa sĩ”. Nghĩa sĩ mới là vẻ đẹp riêng của người lính Thanh Thảo.
Mà không chỉ có nghĩa sĩ của thời đại mới. Thanh Thảo còn miệt mài viết về
những nghĩa sĩ Cần Giuộc (Những nghĩa sĩ Cần Giuộc), nghĩa sĩ Ba Tơ (Bùng nổ
của mùa xuân), về Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực (Cỏ vẫn mọc), về Nguyễn
Đình Chiểu (Trò chuyện với nhân vật của mình), Cao Bá Quát (Đêm trên cát), … Họ
đều là những nghĩa quân, những nhà thơ tiết nghĩa. Họ là nghĩa khí muôn năm của
dân tộc này. Viết về tâm tư mộ nghĩa, chí khí dấy nghĩa của người xưa và cả
người nay là cảm hứng lớn của đời Thanh Thảo. Với Thanh Thảo, viết như thế
chính là trả nghĩa. Có thể nhận xét, viết về nghĩa khí và viết bằng nghĩa khí
là một mãnh lực của ngòi bút Thanh Thảo.
1.3. Thanh
Thảo với những tìm tòi mới trên hành trình sáng tạo
Như một nghệ sĩ chân chính, ngay từ những bước đầu tiên lên
thi đàn, Thanh Thảo đã là ngòi bút ham cách tân. Dù biết rằng phải đương đầu
trả giá, song không thể “như con chim tập
yêu cái lồng của mình” mà “không cần
tập hót”. Và đến nay, dấu ấn mạnh mẽ của ông gieo vào lòng người đọc cũng
là những táo bạo của một bản lĩnh dám dấn thân, dám tiên phong. Đó không phải
là những dấu chân in trên trảng cỏ thời gian hiền lành, mà những dấu chân mở
lối giữa chông gai nhiều khi rớm máu. Và những giọt máu rỏ xuống dọc con đường
tìm kiếm do giẫm vào gai sắt không phải không kết nên những đóa sáng tạo.
Nhìn từ những gì thuộc quan niệm sống và quan niệm thơ, động
lực dấn thân của Thanh Thảo thật nghiêm trang. Ông bước vào cuộc chiến tranh
với tâm nguyện được “trả nghĩa đời mình
bằng máu” thì anh cũng dấn bước vào sáng tạo để trả nghĩa nghệ thuật bằng
cách tân. Và ngòi bút cách tân không chỉ cần tài hoa, mà còn rất cần nghĩa khí.
Nghĩa khí của người “dù phải húc đầu vào
đá – để mở cửa”. Nghĩa khí của người sẵn sàng “nén thơ mình vào thác xiết” làm “một tiếng thét khi đầm lầy ngập cổ - trước mõm chó vó ngựa – lần đầu
thơ biết đến hiểm nguy” (Đêm trên cát). Và Thanh Thảo luôn ý thức được hiểm
nguy khi ném câu thơ mình vào cách tân không chút nề hà. Kẻ cách tân nào cũng sẵn
sàng lao vào lửa dù biết rằng có thể bị lửa thiêu.
Đầu thời chống Mĩ, thơ mạnh về thứ tâm tình ở bên trên. Thứ
nội tâm giản đơn được chuyển động bởi một chủ nghĩa lạc quan ít nhiều dễ dãi,
rập khuôn, giáo điều, ca tụng, … Nghĩa là một thứ nội tâm chân thành nhưng vẫn
khá là vô tâm. Vào chiến trường khi cuộc chiến bước tới hồi khốc liệt, cùng
nhiều cây bút khắt khe khác Thanh Thảo đem đến một tiếng thơ đầy những bận tâm,
toàn những day dứt nhân bản sâu kín về chuyện được - mất, sống - chết, vinh -
nhục, chung - riêng, cá nhân - cộng đồng, gia đình - tổ quốc, … Toàn những trải
nghiệm sinh tử, rớm máu mà vẫn yên tâm. Nhờ đó, ấn tượng đầu tiên thơ Thanh
Thảo tạo được là: giàu đời sống thực, nặng tâm tình thực. Thơ Thanh Thảo luôn
thiết tha với cái thực ấy. Tác phẩm hấp dẫn người đọc ở ý tứ sâu xa và cấu trúc
trữ tình - triết lý rất mực tâm trạng:
“Nếu không có các anh
ngã xuống như muôn ngàn đợt
sóng
hóa những chiếc neo cắm sâu
vào lòng biển
dải đất này sẽ trôi dạt về
đâu?
một trăm hai mươi năm
đất nước dài theo bàn chân
các anh
đất nước nhọn trong mắt nhìn
các anh
chưa lúc nào ngớt bão.”
Thanh Thảo còn viết những câu thơ đầy
cảm xúc, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người yêu thơ:
“Phải thương lắm mới đi làm cách
mạng
phải thương nhiều hơn mới giữ nổi lòng tin
nhưng phải thương đến tận cùng đau đớn
mới làm người mẹ…”
phải thương nhiều hơn mới giữ nổi lòng tin
nhưng phải thương đến tận cùng đau đớn
mới làm người mẹ…”
Hay cách lý giải những vấn đề sinh tử của
một giai đoạn lịch sử đã qua đồng thời đặt ra những vấn đề gắn với đời sống hôm
nay:
“Những đơn giản của phận người nô lệ
bỗng phức tạp vô cùng khi ta sống tự do”
Chất liệu hiện thực đi vào thơ Thanh Thảo
vừa bình dị đời thường, vừa lung linh, huyền ảo như thế. Tuy nhiên ấn tượng về hướng
cách tân chủ yếu là chuyện khác: chuyện hình thức. Hình thức thơ từ thi liệu
đến thể loại, từ ngôn từ đến âm điệu, từ câu cú đến vần luật… đều là những điểm
cách tân. Thanh Thảo sử dụng linh hoạt các thể thơ. Hình thức câu thơ tự do,
luôn biến đổi nên tránh được cảm giác nặng nề, đơn điệu. Ông viết những câu thơ
không câu nệ vào vần luật, phép tắc mà người đọc vẫn cảm nhận được chất thơ của
đời sống:
“Những mái chòi khuất sau đưng đế
những
tên người đã thoát khỏi sổ đinh
những
thân xác rã tan trong nước mặn vô tình
không
một chén rượu rưới trên mồ
các anh những người trốn thuế
các anh – dân lậu
từ bỏ quê nhà xiêu tán lênh đênh
như bèo dạt như mây trôi
khuôn mặt buồn hơn câu hát
câu hát buồn hơn đêm rừng sát hoang vu”.
Bên cạnh đó, ông cũng viết những câu thơ
tươi vui, bình dị:
“Mình ít ché cũ
Mình nghèo nồi
đồng
Nhà mình chỉ có
Một trời mưa
giông
Một chiếc liềm trăng
Mài mòn bóng tối
Một chú
thằn lằn
Chiều chiều
tắc lưỡi”.
Ý thức sâu sắc hơn về mặt cấu trúc trong
mọi thành tố của thơ, Thanh Thảo đã tập trung nỗ lực cách tân của mình đột phá
vào cấu trúc thơ, tìm kiếm các dạng liên kết cho thơ mình. Và ý tưởng rubic
thuần là một trò chơi, nhưng thơ là một chuyện nghiêm túc; rubic là của vật lí
cơ học, còn thơ là của tâm thức tâm hồn nhưng Thanh Thảo đã nhìn thấy được mối
liên hệ giữa chúng và sự kì diệu của
khối rubic. Những ô màu hỗn loạn nhưng lại rất trật tự xoay quanh cái trục bí
mật của rubic. Cái trục lạ lùng kia cho phép các ô màu mặc sức tán loạn. Tuy
lỏng mà chặt, hỗn loạn tán lạc mà cũng trật tự nhất quán vô song. Đó là cấu
trúc của rubic mà cũng là ý tưởng về cấu trúc thơ của Thanh Thảo.
Trước “Khối vuông Rubic”, Thanh Thảo đã
thử nghiệm trường ca “Một trăm mảnh gỗ vuông” cấu trúc bằng những đoạn thơ văn
xuôi là những khối vuông ghép lại (bỏ loại thơ từng câu xuống dòng trước đó).
Cũng là một lối sáng tạo độc đáo, nhưng nếu ghép như thế dễ trở thành cứng
ngắt, Thanh Thảo quyết định bỏ dở “cuộc chơi ghép gỗ vông” này để chơi trò chơi
rubic nhằm đưa thể loại trường ca (vốn là sử thi nghiêm túc) tham gia vào cuộc
chơi xoay và xoay bất tận từ sử thi chiến tranh đến mảng đời thường. Tác giả
xoay theo ý tác giả, người đọc tham gia chơi cứ tùy ý mà xoay những ô vuông cho
thơ chuyển động tròn. Mỗi ô màu là mỗi mảnh đời, mỗi giai đoạn, mỗi số phận
khác nhau. Lối thơ của “Khối vuông Rubic” rất lạ, nó vừa là thơ vừa là văn vừa
là nhạc vừa là kịch vừa là phim … nhưng cuối cùng vẫn cứ là thơ khi liên tục
những vòng xoay rubic vẫn còn chuyển động tròn.
“Khối vuông Rubic” – trường ca cuối cùng
của cuộc thử nghiệm được Thanh Thảo chủ định cấu trúc mở hoàn toàn. Ở đây,
người đọc có thể tham gia vào cuộc chơi bằng cách xoay theo ý muốn của mình, vì
khi cầm khối rubic trên tay, mỗi người có mỗi cách xoay khác nhau và qua mỗi
lần xoay, màu sắc lại hiện lên khác nhau, chẳng ai giống ai. Lí thuyết tiếp
nhận hiện đại cho thấy, từ văn bản của nhà văn đến người đọc, mỗi người được
tiếp nhận khác nhau tùy theo “khoảng cách thẩm mĩ” của mỗi người với văn bản
văn học và sau đó văn bản mới trở thành tác phẩm. Để người đọc tự “xoay chơi”
theo tiếp nhận của mình, Thanh Thảo đã cấu trúc “Khối vuông Rubic” thành 57 lần
xoay. Mỗi lần xoay đều được mở đầu bằng câu “Tôi xoay những ô vuông”. Đó là ý
định sắp xếp của “cái tôi” nhà thơ. Bây giờ mỗi người cầm “Khối vuông Rubic” và
xoay theo ý thích riêng mình sẽ được nhiều cấu trúc khác nhau. Giả dụ, có một
người mê nghệ thuật chỉ muốn tìm ở “Khối vuông Rubic”những quan niệm về nghệ
thuật, thơ ca, người yêu thơ ấy sẽ lại chọn cho mình cách xoay riêng. Rồi nếu
ai đó vô tình đọc một bài viết của Nguyễn Trọng Tạo nhận xét là thơ Thanh Thảo
“tỉnh quá”, muốn kiểm chứng đúng sai ta cứ xoay cho hiện ngay lên ở vòng xoay
đầu tiên ô vuông số 49 của tác giả. Ta sẽ đọc được rằng: “Tôi xoay những ô vuông. Có nhà thơ than rằng đời bây giờ tỉnh quá. Tôi,
ngược lại, tôi thích: tỉnh táo, tỉnh khô, tỉnh bơ, tỉnh như sáo! Vì tôi biết,
cái tỉnh đó chỉ là phía nhìn thấy được của đam mê” … Thanh Thảo gọi “rubic
– đó là cấu trúc của thơ”. Đó cũng là nghệ thuật cấu trúc “vòng tròn mở của trò
chơi rubic”
2. Những quan niệm về chủ nghĩa nhân văn
2.1. Theo Lê
Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong “Từ điển thuật ngữ văn học”
Chủ nghĩa nhân văn còn gọi là chủ nghĩa nhân đạo
Ở cấp độ thế giới quan, chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những
tư tưởng, quan điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của con người như trí tuệ,
tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm đạo đức đơn
thuần, mà còn bao hàm cả cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt (vị
trí, vai trò, khả năng, bản chất…) trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội với
đồng loại.
Nó được tạo ra trong văn hoá nghệ thuật và loài người và văn
hoá nghệ thuật từ xưa đến nay là một thế giới mà con người luôn luôn đấu tranh chống
lại mọi thế lực thù địch xuất hiện dưới mọi hình thức, để khẳng định mình,
khẳng định quyền năng và sức mạnh của mình, đồng thời thể hiện khát vọng làm
người mãnh liệt và cao đẹp của mình. Lòng yêu thương, ưu ái đối với con người
và thân phận của nó từ trước đến nay vẫn là sự quan tâm hàng đầu của các nhà
văn, nhà nghệ sĩ trong cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.
Khi nói rằng: “Văn học
là một nghệ thuật nhân văn hơn cả, người ta có thể nói những nhà văn đều là
những nhà nhân văn do nghề nghiệp của mình, những người sản sinh ra chủ nghĩa
nhân văn”, chính M.Gorki đã xây dựng chủ nghĩa nhân văn ở cấp độ này.
Ở cấp độ lịch sử: chủ nghĩa nhân văn là trào lưu văn hoá – tư
tưởng nảy sinh ở Italia và một nước khác ở châu Âu thời Phục hưng (thế kỷ XIV –
XVI). Những người khởi xướng trào lưu này (thường được gọi là các nhà nhân
văn), các nhà thơ Italia: Pê-tơ-răc-ca (1304 – 1374), Bôcaxiô (1313 – 1375) chủ
trương giải phóng văn học nghệ thuật nói riêng và văn hoá nói chung khỏi sự bảo
trợ của nhà thờ Cơ Đốc Giáo và giải phóng cá nhân con người. Họ quan niệm không
phải thần linh mà là con người tự định đoạt lấy số phận của mình. Con người có
khả năng vô tận để hoàn thiện môi trường của mình. Trong hoạt động văn hoá,
nghệ thuật họ chủ trương đi sâu nghiên cứu những thành tựu rực rỡ giàu sức sống
và vẻ đẹp hồn nhiên của văn hoá cổ đại Hi Lạp – La Mã đã bị quên lãng trong
suốt thời trung cổ, nhằm khôi phục những giá trị nhân văn của chúng. Họ hướng
văn học nghệ thuật vào sự sáng tạo và ca ngợi cái đẹp trần thế, lành mạnh, tự
nhiên, đề cao những khát vọng cao đẹp và niềm tin vào sức mạnh toàn năng của
con người. Có thể nói sự ra đời của chủ nghĩa nhân văn Phục hưng là một bước
ngoặt quan trọng trong quá trình giải phóng tinh thần và tự ý thức của nhân
loại. Từ thời Phục hưng trở về sau, trong văn học nghệ thuật, chủ nghĩa nhân
văn đã bước sang một giai đoạn phát triển mới, từng bước gắn liền với cuộc đấu
tranh giải phóng con người về các phương diện chính trị - xã hội và các phương
diện khác thuộc nhiều lĩnh vực hoạt động của đời sống. Nó trở thành lí tưởng
thẩm mĩ. Có sức định hướng cho những tìm tòi sáng tạo nghệ thuật và qui định
bản chất của mỗi nền văn học nghệ thuật.
Trong sáng tạo văn học nghệ thuật, hình thái và mức độ biểu
hiện của chủ nghĩa nhân văn hết sức phong phú, đa dạng, độc đáo. Vì thế khi
tiếp nhận tác phẩm văn học, chúng ta không
nên lược qui những giá trị nhân văn của nó vào những mức độ chung trừu tượng mà
phải tìm ra những sắc thái biểu hiện tinh tế độc đáo, cụ thể trong thái độ và
cảm xúc thẩm mĩ của tác giả đối với con người và cuộc sống.
2.2. Theo Đỗ
Đức Hiểu, Phùng Văn Tửu, Nguyễn Huệ Chi trong “Từ điển văn học” (Bộ mới, năm
2003 – 2004)
Chủ nghĩa nhân văn là một hệ thống quan điểm triết học - đạo
đức, chính trị - xã hội coi con người và đời sống hiện thực, trần thế của nó,
một đời sống văn minh, hạnh phúc hữu ái, là mục đích cao nhất. Nó giải thích
những nguyên nhân đã gây ra cho nhân loại cảnh bất hạnh, tội lỗi, đồi truỵ… và
đề ra phương pháp giải quyết cho những hiện tượng đó để cho con người sống ở
một cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Những nhân tố của chủ nghĩa nhân văn đã từng tồn tại trong
văn học dân gian, trong gia tài văn hoá tinh thần ở nhiều dân tộc thời cổ.
Nhưng phải đến thời đại Phục hưng ở Phương Tây thì chủ nghĩa nhân văn mới xuất
hiện với tư cách là một quan điểm triết học - đạo đức, chính trị - xã hội. Chủ
nghĩa nhân văn ra đời như là một sự phản ứng chống đối lại hệ tư tưởng phản
động cùng với cơ chế của chính quyền phong kiến, Giáo hội, Toà án tôn giáo,
thần học, chủ nghĩa ngu dân, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ
nghĩa khổ hạnh… chỉ khẳng định có niềm hạnh phúc thuần tuý tinh thần ở thiên
đường mà con người khi sống phải nhẫn nhục, chịu đựng, sám hối, chuộc tội, cầu
nguyện thì mới có thể, đạt tới cõi vĩnh hằng cao cả. Nó cũng khẳng định chỉ có
Chúa trời và Kinh thánh là chân lí và ngọn nguồn của mọi tri thức.
Các nhà nhân văn chủ nghĩa đã tiếp thu những thành tựu khoa
học tự nhiên và triết học tự nhiên của thời đại, và coi con người là một bộ
phận của tự nhiên, sống và chết theo quy luật của tự nhiên, trả con người về
với tự nhiên để nó phát triển tự nhiên. Chiến tranh phong kiến, chủ nghĩa khổ
hạnh tôn giáo, chủ nghĩa cấm dục, chủ nghĩa giáo điều, kinh viện, ngu dân, thói
đàn áp tự do tư tưởng… là trái với tự nhiên là nguồn gốc của mọi cảnh bất hạnh,
xấu xa, tội lỗi trên thế giới, gây ra rối loạn trong đời sống. Từ đó các nhà
nhân văn chủ nghĩa khẳng định “Con người
là vẻ đẹp của thế gian, kiểu mẫu của muôn loài” (Sêcxpia).
Chủ nghĩa nhân văn đã giáng một đòn mạnh mẽ và quyết liệt vào
chế độ phong kiến, Giáo hội và hệ tư tưởng tôn giáo, góp phần quan trọng vào
việc giải phóng con người và tiến bộ xã hội. Nhưng chủ nghĩa nhân văn không
giải quyết được vấn đề hạnh phúc nhân loại. Do hạn chế của thời đại, chủ nghĩa
nhân văn có ảo tưởng rằng chỉ phá vỡ được xiềng xích áp bức của chế độ phong
kiến và Giáo Hội, tôn trọng quyền tự do của con người, phát triển văn hoá và
khoa học, thì nhân loại sẽ được hạnh phúc. Chủ nghĩa nhân văn không thấy được
nguồn gốc bất hạnh, áp bức và mọi tệ nạn dã man khác là do chế độ tư hữu nói
chung và quyền sở hữu nói riêng. Trong xã hội Châu Âu thời tiền tư bản chủ
nghĩa, lại xuất hiện những cảnh bất hạnh mới, dã man, tàn bạo chẳng khác gì
thời trung cổ. Không giải thích được căn nguyên của tình hình đó, các nhà nhân
văn chủ nghĩa rơi vào cuộc khủng hoảng lí tưởng sâu sắc và lối thoát duy nhất
tích cực là tiếp tục phê phán những hiện tượng phản nhân văn trong đời sống với
một tâm trạng bế tắc, ưu tư và bi quan.
Chủ nghĩa nhân văn đặt vấn đề giải phóng nhân loại trước hết
bằng việc giải phóng cá nhân, coi quyền tự do cá nhân như mục đích cuối cùng
phải đạt tới, không thấy được trước hết phải là vấn đề tự do cho toàn xã hội và
cũng không thấy được mối quan hệ biện chứng cá nhân và xã hội.
2.3. Theo
chủ nghĩa Mácxit
Con người phải là vị trí trung tâm, bình
diện thứ nhất trong tác phẩm, đó là con người cá nhân, con người ở địa vị một
người.
Văn học phải quan tâm đến khát vọng, ước
mơ hạnh phúc, nỗi niềm riêng tư, những bi kịch lỗi lầm của con người. Nói cách
khác, văn học quan tâm toàn bộ thế giới bên trong của con người.
Văn học phải bảo vệ quyền sống, môi trường tự do của con
người, quan tâm đến sự hình thành hoàn cảnh để năng lực con người có thể phát
triển.
Văn học phải phản ánh cái xấu, cái bất nhân (phi nhân, phi
nghĩa), vạch trần bản chất của những thế lực kìm hãm sự phát triển của con người.
Một tác phẩm văn học có giá trị nhân văn thì tất yếu phải có
giá trị thẩm mĩ.
3. Những
biểu hiện chủ nghĩa nhân văn trong “Khối vuông Rubic” của Thanh Thảo
Trong tác phẩm của Thanh Thảo, người đọc nhận ra
lúc nào ông cũng muốn nói lên những suy nghĩ tận cùng nhất của mình bằng một
giọng lắng đọng, trầm tư. Cũng dễ nhận thấy thơ Thanh Thảo không chỉ bày tỏ mà
còn có sức khơi gợi, thực sự là tiếng nói tâm đắc sâu xa về những vấn đề của
cuộc sống, của thế hệ ông và thời cuộc. Vì thế, thơ Thanh Thảo lấp lánh chất
nhân văn. Nói về chủ nghĩa nhân văn, đây là một trong những cảm hứng sáng tạo
nghệ thuật. Trong phạm vi hạn hẹp, chúng tôi chỉ tìm hiểu những biểu hiện của
chủ nghĩa nhân văn qua những tác phẩm tiêu biểu trong tập thơ “Khối
vuông Rubic” (Thanh
Thảo) theo quan điểm của chủ nghĩa Macxit.
3.1. Trong
thơ Thanh Thảo mà nổi bật là tập thơ “Khối vuông Rubic”, con người luôn ở vị
trí trung tâm, bình diện thứ nhất trong tác phẩm
Các nhà thơ hiện đại Việt Nam nói chung, Thanh Thảo nói riêng
đã vận dụng thể thơ văn xuôi để bày tỏ những dòng trăn trở, suy tư, cả những
dòng triết lý và những cảm xúc sôi trào.
Theo lần xoay ngẫu nhiên, Thanh Thảo thả
hồn mình theo trí tưởng tượng. Những cảnh đời bể dâu ngang trái lại hiển hiện
trước mắt. Và sự đồng cảm của nhà thơ trào dâng mạnh mẽ trước những con người
tài hoa mà lại mang một số phận trớ trêu. Nhưng hơn hết là sự khẳng định tài
năng và bản lĩnh sáng tạo của con người dù ở bất kỳ thời đại nào hay hoàn cảnh
nào vì “sáng tạo là hành động cao cả nhất của con người”.
“Trái đất theo tưởng
tượng của ông bà chúng tôi mang hình một khối vuông. Tôi xoay những ô vuông. Trong
chớp mắt hiển hiện cảnh bể dâu. Chắc Nguyễn Du và Tú Xương sẽ thú vị nếu được
cầm trên tay trò chơi rubíc.
Thượng đế bằng sáng tạo. Không
phải thượng đế. Sáng tạo là hành động cao cả nhất của con người” (Khối vuông
Rubic).
Tiếp tục xoay, Thanh Thảo thấy xót xa trước thi hài lạnh lẽo
của người lính trẻ nằm chơ vơ ngoài biên giới. Và có biết bao người lính đã ngã
xuống mà “không một chút lễ nghi”, nhang khói. Đó là cái giá của độc lập, tự
do. Từ đó, nhà thơ thay mặt Tổ quốc bộc lộ tấm lòng trân trọng đối với những
đóng góp, cống hiến của họ vì quê hương, đất nước.
“Tôi xoay những ô vuông “bài
hát những người bạn chết”. Tấm tăng xám quấn thân hình bạn. Không một chút
lễ nghi. Đất nơi bạn nằm bên ngoài biên giới. Một lần nữa đất rơi
xuống. Không phải đất, mà là Tổ quốc, lặng lẽ phủ lên thi hài người lính trẻ” (Khối
vuông Rubic).
Khai thác về hiện thực chiến tranh, hướng tới khắc họa chân
dung người lính, nhưng thơ Thanh Thảo không dừng ở sự quan sát, miêu tả, mà đi
vào khám phá thế giới tinh thần của một thế hệ trẻ “xoay trần đánh giặc”. Bài
thơ “Một người lính nói về thế hệ
mình” còn là sự tự ý thức của một thế hệ trẻ. Bằng việc
đặt cá nhân vào trong lịch sử và lịch sử vào trong cá nhân, và đưa quá khứ, dù
khó khăn và khủng khiếp đến đâu chăng nữa, vào mối quan hệ bao quát nào
đó với hiện tại, nhà thơ đã hoàn tất một viễn cảnh đem lại khả năng phục hồi và
hàn gắn. Thông qua việc kết hợp cái chung và cái riêng, nhà thơ đã tôi luyện
cái tâm – cái phẩm chất nhắc nhở và cảnh báo, và gợi nhớ những người chịu nhiều
đau khổ và những người đã khuất. Có lẽ giao điểm giữa cái chung và cái riêng
không đâu được đề cập mạnh hơn trong bài thơ “Một người lính nói về
thế hệ mình” của ông:
“Ngày chúng tôi đi
các toa tàu mở toang cửa
không có gì phải che dấu nữa
những thằng lính trẻ măng
tinh nghịch ló đầu qua cửa sổ
những thằng lính trẻ măng
quân phục xùng xình
chen bám ở bậc toa như chồi như nụ
con tàu nổi hiệu còi rung hết cỡ
và dài muốn đứt hơi
hệt tiếng gã con trai ồm ồm mới vỡ”
các toa tàu mở toang cửa
không có gì phải che dấu nữa
những thằng lính trẻ măng
tinh nghịch ló đầu qua cửa sổ
những thằng lính trẻ măng
quân phục xùng xình
chen bám ở bậc toa như chồi như nụ
con tàu nổi hiệu còi rung hết cỡ
và dài muốn đứt hơi
hệt tiếng gã con trai ồm ồm mới vỡ”
Trong thơ Thanh Thảo, có lẽ cái cốt của chất trẻ là ở sự tự
khẳng định mạnh mẽ
của thế hệ mình, một thế hệ do cách mạng đẻ ra và đào
luyện từ trong lòng nôi một chế độ mới và đem cống hiến cho chế độ toàn bộ khát
vọng, nhiệt tình, ý thức cho đến cả chính xương máu, số phận, sinh mạng mình.
“ thế hệ chúng tôi
hồi còi ấy là một lời
tuyên bố
một thế hệ mỗi ngày
đều đụng trận
mà trách nhiệm nặng
hơn nòng cối 82
vẫn thường vác trên
vai
một thế hệ thức nhiều
hơn ngủ
xoay trần đào công sự
xoay trần trong ý
nghĩ
đi con đường người
trước đã đi
bằng rất nhiều lối
mới”
Những chi tiết có vẻ vụn vặt trong cuộc sống của những
người lính đã gợi lên lòng trắc ẩn trong “nắm cơm nho nhỏ”
hay “mấy ống cóng canh chua” họ chia sẻ cho nhau. Và trong khi
tình bạn thân thiết giữa những người lính được mô tả, ý thức về số mệnh chung
của họ được truyền đạt rõ ràng hơn ý thức về mục đích chung. Tình người đó
thoát ra khỏi bất kỳ thứ tình cảm ái quốc thiển cận nào, để đến với một trạng
thái phổ quát hơn:
“ nhủ điều chi ơi
tiếng quốc đêm sương
kêu da diết suốt một
mùa nước nổi
bông điên điển mở
cánh vàng nóng hổi
là nắng chiều đẫm lại
giữa lòng tay
đất nước ngấm vào ta,
đơn sơ
như Tháp Mười không
điểm trang
đầy
im lặng
trên tất cả tình yêu - tình yêu này đi thẳng
đến mỗi đời ta
bất
chấp những ngôn từ”
Đây là một giây phút cảm động, là phút giải khuây đầy nhân
bản trong sự kinh hoàng của chiến tranh, khi bản thân vượt ra ngoài giới hạn
chịu đựng để chia sẻ nỗi đau và hy vọng với người khác. Ở mức độ cùng cực nhất,
cái tôi không thu mình vào trong những mất mát của chính nó mà hướng tới những
người khác, và đó là giọng điệu mong manh nhưng quả quyết trong thơ chiến tranh
của Thanh Thảo. Ở đó còn có sự thay đổi hơn nữa về thời gian, đặt nỗi đau của
cá nhân vào một ngữ cảnh rộng lớn hơn:
“buổi chiều pháo bắn
những cây bình bát gục ngã
hoàng hôn đôi bờ như máu chảy
những cây bình bát gục ngã
hoàng hôn đôi bờ như máu chảy
trắng dòng kênh xác xăng
đặc lều bều
tôi bỗng thấy mặt mình trên
mặt nước
mặt nước trôi những dề xăng đặc
mặt nước trôi những trái bình bát
mặt nước trôi quê hương không còn nguyên vẹn
mặt nước trôi những dề xăng đặc
mặt nước trôi những trái bình bát
mặt nước trôi quê hương không còn nguyên vẹn
và tôi thấy
trôi qua mặt mình bao nhiêu gương mặt
những bạn bè quen những bạn bè chưa gặp
trẻ măng
loang loáng theo con nước
tủa về những đồng sâu
trôi qua mặt mình bao nhiêu gương mặt
những bạn bè quen những bạn bè chưa gặp
trẻ măng
loang loáng theo con nước
tủa về những đồng sâu
hun hút buổi chiều
đó là những người qua trước
không phải trước hai mươi năm
đó là những người qua sau
không phải sau hai mươi năm
mà vào buổi chiều ấy
trên những dòng kênh ấy
pháo bắn và nước chảy
thế hệ chúng tôi –
nhìn rất rõ –
không phải trước hai mươi năm
đó là những người qua sau
không phải sau hai mươi năm
mà vào buổi chiều ấy
trên những dòng kênh ấy
pháo bắn và nước chảy
thế hệ chúng tôi –
nhìn rất rõ –
mặt
mình”.
(Một
người lính nói về thế hệ mình)
Từng là một người lính với dấu chân in khắp nẻo đường đất
nước, từng sống, từng đấu tranh để giành lấy hạnh phúc, tự do; từng chứng kiến
sự tàn nhẫn, độc ác của kẻ thù nên Thanh Thảo hiểu được nỗi đau của những kiếp
người nghèo khổ không phân biệt màu da hay sắc tộc. Ông ngợi ca, an ủi những
đồng nghiệp, những con người có cùng nhịp đập của trái tim:
“nếu so với cuộc đời chó đẻ mà các anh phải sống
thì màu da các anh
trong trắng vô ngần!”
Tác giả dùng hình ảnh so sánh, đối lập để khẳng định vai trò,
vị trí của con người trong cuộc sống: “nếu
so với cuộc đời chó đẻ mà các anh phải sống / thì màu da các anh/ trong trắng
vô ngần!”. Màu da các anh là màu da đen nhưng nó lại trắng trong vô ngần
trước cuộc đời chó đẻ! Một tiếng chửi không nể nang “cuộc đời chó đẻ”. Cuộc đời như thế nào là cuộc đời chó đẻ? Phải
chăng cuộc đời đó đã lấy đi tình yêu, hạnh phúc và những ước mơ của con người?
Phải chăng cuộc đời đó đã để lại cho con người toàn những điều “chua cay”? Dù
sao thì Thanh Thảo vẫn tìm thấy niềm tin, niềm hy vọng ở con người. Dẫu trong
bất kì hoàn cảnh nào, con người vẫn sống tốt, vẫn giữ gìn bản chất và không
ngừng vun đắp những ước mơ.
Tuy nhiên, con người
không dễ dàng bị hoàn cảnh đè bẹp. Cuộc sống luôn vận động nên con người không
thể đứng yên. Con người phải lao động để sinh tồn dù việc làm kia nhỏ bé:
“cao quá – những tòa nhà
nơi các anh cúi lưng rửa từng chồng bát đĩa
trong lúc bầu trời điệu blues rạn vỡ”
Ta cứ tưởng cái đói sẽ
làm con người nhục lý trí, mất niềm tin. Nhưng, dù đời có nghiệt ngã cũng không
thể nào bóp nghẹt những trái tim yêu đời, không thể nào dập tắt ngọn lửa yêu
thương, không thể nào xóa tan những niềm hi vọng. Vì vậy, những nhà thơ da đen
đã vượt qua sự đói khổ, đã “cúi lưng rửa từng chồng bát đĩa” để rồi:
“không xấu hổ chuốt câu thơ như ngọc
không xấu hổ vốc câu thơ như bùn
các anh là thợ xây trộn vôi vữa
cả thiên đàng địa ngục”
Những nhà thơ da đen
không còn bị đè nén về mặt tinh thần. Thơ của họ không còn bị rơi vào khoảng
trống cuộc đời. Họ không còn bị lãng quên. Thanh Thảo đã đề cao những khát vọng
tốt đẹp của con người, đã tin tưởng vào sức mạnh toàn năng của họ. Họ đã vượt
lên trên hoàn cảnh, sống và làm việc trong mọi hoàn cảnh. Những thành quả họ có
được thật vinh quang, được gặt hái từ chính sự nỗ lực của bản thân. Vì vậy,
thật đáng trân trọng biết bao! Cho nên “không xấu hổ chuốt câu thơ như ngọc,
không xấu hổ vốc câu thơ như bùn”. Hai hình ảnh đối lập “chuốt câu thơ như
ngọc/vốc câu thơ như bùn” muốn nói lên lẽ thường của cuộc đời. Chúng không hề
bị mâu thuẫn. Những câu thơ do cùng đối tượng làm ra có khi như ngọc, có khi
như bùn vì cuộc đời không thuần là hạnh phúc, không thuần là khổ đau mà nó là
tất cả. Những nhà thơ da đen đã được tôi luyện từ cuộc sống. Chính những va
chạm với đời làm cho con người hiểu đời hơn. Từ đó con người sẽ hiểu những
người cùng chung cảnh ngộ. Vì vậy thơ của họ có ý nghĩa sâu sắc:
“qua mặt những tiên tri rao giảng sấm truyền
thơ các anh như bánh mới ra lò
bùng nổ
như bãi mìn vùi dưới đất nhiều năm”
(Đọc những
nhà thơ da đen)
Người nghệ sĩ vốn dễ đồng điệu. Cho nên có một cách để
hiểu người cầm bút: “cứ xem anh viết về
ai thì có thể biết anh là ai”. Với các thi sĩ trong nước, Thanh Thảo viết
nhiều về Nguyễn Đình Chiểu, Cao Bá Quát, Hàn Mặc Tử, Bích Khê… Còn những thi sĩ
ngoài nước, ông viết đậm về Aragông, Êxênhin, Maicôpxki, Pasternac, Lorca… Về
từng nhà thơ đều có những kí thác, những đồng điệu riêng. Trong số các cây bút
Phương Tây, Thanh Thảo đã mở rộng cả tâm hồn để đồng cảm với số phận và thơ của
Lorca, ngưỡng mộ và yêu mến Lorca. Sự hy sinh anh dũng của Lorca trước họng
súng cua bọn phát xít Franco đã để lại nhiều tiếc thương cho nhân dân Tây
Ban Nha. Sức ám ảnh của những bài thơ đầy chất lãng tử của người
nghệ sĩ Tây Ban Nha ấy gặp gỡ hồn thơ Thanh Thảo làm
nên bài thơ độc đáo “Đàn ghi-ta của Lorca” trong tập thơ “Khối vuông Rubic”
Không phải ngẫu nhiên mà Thanh Thảo lại
chọn hình tượng đàn ghi-ta gắn với giây phút cuối cùng của F.G.Lorca.
Bởi lẽ người chiến sĩ này đã dùng tiếng ghi ta cất lên lời ca tranh đấu chống lại
chủ nghĩa phát xít. Đàn ghi-ta là tâm hồn Lorca, là khí phách kiên cường của
những người chiến sĩ yêu tự do hòa nhịp trái tim mình với quần chúng nhân dân.
Bởi vậy, nỗi xúc động của Thanh Thảo làm nên cảm hứng của bài thơ cũng bắt đầu
từ câu thơ của Lorca: “ Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”.
Bài thơ giàu nhạc điệu, tác giả đã để
lòng mình đồng điệu với sự sống Lorca trong giờ phút đối mặt với họng súng kẻ
thù. Nhưng tiếng đàn ấy, sức sống ấy vẫn ngân vang mãnh liệt, âm thầm mà bất
tử :
“không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng”
Đoạn thơ tái hiện khoảnh khắc kẻ thù của
Lorca hèn hạ thủ tiêu chàng, ném xác xuống giếng, nhưng qua hình tượng âm thanh
tiếng đàn ta nhận ra một sức sống mãnh liệt vẫn tiếp tục. Cảm giác bi
tráng hiện hữu qua những liên tưởng về cỏ mọc hoang, giọt nước mắt vầng
trăng, đáy giếng tạo cảm giác trống vắng sau sự hy sinh anh dũng của
Lorca. Thanh Thảo rất có ý thức khi so sánh tiếng đàn với cỏ mọc hoang để cảm
nhận về sức lan toả của sự sống mãnh liệt không gì có thể hủy hoại được. Có
khoảng lặng sau ánh sáng vầng trăng nhưng đủ diễn tả nỗi tiếc thương long
lanh trong đáy giếng, nơi kẻ thù tưởng có thể vùi chôn tinh thần
tự do bất tử của Lorca.
“Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái di gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim
mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la...”
(Đàn ghi ta của Lorca)
Những câu thơ diễn tả một hành trình đối
mặt với định mệnh của người nghệ sĩ tài hoa người Tây Ban Nha, như một thái độ
bình thản trước số phận. Hai lần Thanh Thảo dùng động từ ném để diễn
tả nhằm làm nổi bật lên vẻ đẹp của con người từ lâu dám coi khinh cái chết, bởi
cái chết do kẻ thù gây ra cũng không thể ngăn cản tư tưởng, tâm hồn Lorca hoà
vào với sự sống bất tử của nhân dân.
Đây là bài thơ hay
không chỉ tạo dựng chân dung người nghệ sĩ một cách chân thực, mà còn khiến
người độc cảm nhận rõ vẻ đẹp tâm hồn, tính cách đậm chất Tây Ban Nha. Thanh
Thảo ca ngợi người chiến sĩ trong đội ngũ đấu tranh vì tự do công lý
quyết không cúi đầu trước các thế lực tàn bạo. Cái chết thực sự của một nhà
cách tân là khi những khát vọng của anh không có ai tiếp tục.
Hoa lila là những đóa hoa của người đời …
thành kính viếng hương hồn (hoa tử đinh hương) hay chính ngàn muôn đóa hoa của
sự sống đang nảy nở từ cái chết đau thương của thi sĩ thể hiện sức sống bất
diệt của những giá trị chân chính trên cõi đời này.
Đàn ghita trước mắt chúng ta là một thế
giới thơ ca chói lòa của thiên tài Lorca, là bức tranh bi tráng về thân phận
người nghệ sĩ của thời đại biến động như bão táp, là vẻ đẹp lung linh của nghệ
thuật vượt lên trên mọi sự đe dọa của các thế lực bạo tàn nguy hiểm.
Verlaine, một nhà thơ Pháp nói: “Thơ
trước hết là nhạc”, nhưng theo Thanh Thảo đó là “nhạc của thơ” chứ
không phải âm nhạc bảy nốt hay ngũ cung bát âm. Và những âm điệu trong bản giao
hưởng “Lê-nin-grat” đã dẫn dắt Thanh Thảo sáng tác bài thơ “Có một lần tôi
nghe bản giao hưởng số bảy”. Thêm một lần nữa, tấm lòng của Thanh
Thảo xuyên qua mọi lục địa đến với đất nước Nga xinh đẹp tâm hồn người Nga kiên
cường, bất khuất và yêu quê hương đất nước mãnh liệt:
“Tổ quốc
Không chỉ trong chói lọi tiếng kèn đồng
Mà giữa quãng lặng im
giữa hơi thở sâu thẳm của đàn dây
hay nhịp nhanh vũ điệu vòng tròn
tôi nghe một giọng trầm trầm day dứt
“ mất nước Nga thì ta
còn sống làm gì nữa?...”
(Có một lần
tôi nghe bản giao hưởng số bảy)
3.2. Văn học
phải quan tâm đến khát vọng, ước mơ hạnh phúc, nỗi niềm riêng tư, những bi kịch
lỗi lầm của con người
Mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau. Dù muốn dù
không, con người vẫn phải chấp nhận hiện thực. Tuy nhiên, để khẳng định sự tồn
tại, con người sống phải có khát vọng, ước mơ. Dù không thực hiện được nhưng
vẫn phải nhìn về và mơ ước. Bởi vì, chính ước mơ là động lực để con người hướng
đến tương lai. Nhà thơ Thanh Thảo đã nhận thức rõ điều này. Cho nên, trong
“Khối vuông Rubic”, vòng xoay khát vọng, vòng xoay ước mơ hiện lên rất rõ:
“Tôi xoay những ô vuông. Hình mẫu mơ ước thời trẻ của tôi là
một cầu thủ bóng đá nổi tiếng. Một hình mẫu chẳng bao giờ tôi đạt được. Mỗi chúng ta đều mong muốn trở thành
người khác, với những phẩm chất đặc biệt khác mà mình không có . Đôi khi tôi
cũng mơ thành nhà văn, nhưng hình ảnh này hơi kém sức thu hút. Thời gian sẽ
quân bình và hiện thực sẽ tàn nhẫn chỉ ra đâu là mơ đâu là thực nhưng vì sao ta
cứ quyến luyến với hình ảnh ban đầu ấy, vì sao ta tưởng tượng mãi về nó đến nỗi
dường như nó sống thực trong ta.”
Con người không chỉ khao khát, ước mơ cho bản thân mình mà
những ước mơ, khao khát kia còn dành cho quê hương, đất nước:
“tôi thấy cô gái ra bờ sông gánh nước
màu
trời xanh tiếng chim sơn ca
hoa
anh đào thân yêu bên những ngôi nhà gỗ
cứ
mùa xuân đàn sếu lại bay về…
(Có một lần tôi nghe bản giao hưởng
số bảy)
Ở những dòng thơ trên, ta thấy con người Nga luôn khao khát
cuộc sống tự do và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Bên cạnh đó, nhà thơ còn nhận thức rất rõ quy luật của cuộc
đời:
“những khúc nhạc Jazz
không thể nào làm lại
không thể làm lại khoảnh khắc hạnh phúc
những câu thơ ta ném xuống dòng sông”
(Đọc những nhà thơ da đen)
Vì vậy, nhà thơ kêu gọi, đánh thức mọi người hãy gìn giữ hạnh
phúc, phải biết trân trọng, nâng niu những gì có được.Thời gian cứ trôi qua,
dòng đời cứ trôi qua không bao giờ trở lại. Những gì hoàn hảo, trở nên xuất
chúng thì “không thể nào làm lại” như
“những khúc nhạc Jazz”. Mỗi lúc khác
nhau, mỗi sự việc khác nhau đều đem đến cho con người những cảm giác hạnh phúc
khác nhau. Cho nên “không thể làm lại
khoảnh khắc hạnh phúc”.
Như những nhà thơ khác, Thanh Thảo rất nhạy cảm với cuộc đời,
với con người. Ông đã đặt hoàn cảnh của mình vào trong hoàn cảnh của người
khác. Từ đó, ông thấu hiểu nỗi niềm riêng tư của họ:
“giá
câu thơ là mẩu bánh mì
nhiều khi ta
thèm chết được
cơn cồn cào bụng các anh, tôi biết”
(Đọc những nhà thơ da đen)
Qua những dòng thơ này ta hình dung ra một cảnh tượng người
đói đang thèm mẩu bánh mì. Từ đó liên tưởng “câu thơ là mẩu bánh mì”, “thèm
chết được”, “cơn cồn cào bụng” tức là một sự khao khát làm thơ. Sự khao
khát này, sự ham muốn này không là của riêng ai. Tác giả đã dùng từ “ta”, tức là tác giả muốn nói “ta”
là tôi và các anh. Chúng ta đều như nhau, tất cả đều là nhà thơ. Cho nên tôi
biết những điều các anh nghĩ. Tôi hiểu các anh sống trong hoàn cảnh như thế
nào. Tôi hiểu các anh muốn gì trong hoàn cảnh ấy.
Từ đó, tác giả đã dùng điệp ngữ “tôi biết” để một lần nữa khẳng định:
“tôi biết
trên đường phố
dòng người chảy tan vào nắng
có kẻ đói hoa mắt thấy hàng triệu mặt trời”
(Đọc những nhà thơ da đen)
“Tôi biết” được lặp lại lần thứ hai, không chỉ tôi biết các anh thèm
khát làm thơ mà tôi biết các anh bị cuộc sống đói khổ, hoàn cảnh khắc nghiệt
giày vò. Cái đói, sự nghèo khổ không là của riêng ai. Nó là của nhiều người
sống trong cuộc đời “chó đẻ”. Từ đó
sản phẩm của con người làm ra, những câu thơ con người tạo nên đã không còn giá
trị:
“mẩu bánh mì rơi xuống đất
câu thơ rơi không ai nhặt
rơi lặng im không chạm một ai”
(Đọc những nhà thơ
da đen)
“Mẩu bánh mì - câu thơ rơi” đã rơi. Rơi không ai nhặt. Rơi không
chạm một ai. Rơi trong im lặng, trong quên lãng. Từ “rơi” được lặp lại ở cả ba dòng thơ nhằm nhấn mạnh một khoảng không
trong cuộc đời của con người. Những nhà thơ da đen đã bị rơi vào quên lãng. Tài
năng của họ bị kìm hãm bởi cuộc đời. Cuộc đời làm nặng những câu thơ. Cho nên
nó không thể thăng hoa, không thể bay bổng.
Không riêng gì những nhà thơ da đen, hầu như những người tài
hoa đều có những thử thách nghiệt ngã của cuộc đời, thậm chí họ đã rơi vào bi
kịch. Điều này thể hiện rõ qua “Đàn ghi-ta
của Lorca”.
Mở đầu
bài thơ “Đàn ghi-ta của Lorca” là
những tiếng đàn bọt nước sao quá mong manh. Ghi-ta và vần thơ mang theo khát
vọng tự do dân chủ, Lorca chiến đấu với bè lũ phrăng độc tài phát xít. Đây
không phải là cuộc đấu tranh khẳng định sức mạnh cơ bắp mà là cuộc chiến đấu
giữa khát vọng dân chủ của công dân Lorca với nền chính trị độc tài, của khát
vọng cách tân nghệ thuật với nền nghệ thuật cằn cõi già nua:
"những
tiếng đàn bọt nước
Tây-ban-nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la
li-la
đi lang thang
về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn"
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn"
(Đàn ghi-ta của Lorca)
Cái chết Lorca là sự mất mát lớn lao của nhân dân Tây Ban
Nha. Dù ông đã chết nhưng con sông thơ cùng giai điệu của tiếng đàn ghita
lilalila tha thiết mang theo khát vọng tự do và cách tân nghệ thuật của ông lan
tỏa trong không gian thời gian, trong tình cảm mến mộ của công chúng yêu nghệ
thuật. Tiếng đàn ghita là vũ khí chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát xít là tâm
hồn là khí phách kiên cường của người chiến sĩ tự do hòa hợp với trái tim mình
với quần chúng nhân dân, làm Thanh Thảo xúc động cảm hứng viết lên “ khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”.
“Đàn ghi-ta của Lorca” - một sự cộng hưởng của những khát vọng sáng tạo, một
khả năng nhập cảm sâu sắc vào thế giới nghệ thuật thơ Lorca, một suy nghiệm
thâm trầm về nỗi đau và niềm hạnh phúc của những cuộc đời đã dâng hiến trọn vẹn
cho cái đẹp. Cây đàn cất lên tiếng lòng của Lorca trước cuộc sống trước thời
đại. Nó là tinh thần thơ Lorca, là linh hồn và cao hơn cả là số phận ở nhà thơ
vĩ đại này.
3.3.Văn học
phải bảo vệ quyền sống, bảo vệ môi trường tự do của con người, quan tâm đến sự
hình thành và hoàn cảnh để năng lực con người có thể phát triển
Thanh Thảo là một nhà thơ hiện đại, giàu
lòng yêu thương con người. Theo ông, con người sống phải biết quan tâm, chia sẻ;
nghĩa tình ấm áp luôn nâng đỡ con người vượt qua những khó khăn:
“Tôi xoay những
ô vuông. Trạm 79 đường dây. Anh họa sĩ cho nhóm sốt rét chúng tôi mấy lạng
đường. Anh đang ra Bắc, còn chúng tôi tiếp tục vào Nam.
Mười
hai năm sau thìa đường anh vẫn ngọt trong cổ tôi. Xin chúc anh vẽ được nhiều
bức tranh đẹp”.
Bên cạnh đó, tâm tình thực của Thanh Thảo
còn hướng đến những con người, những nạn nhân chịu hậu quả nặng nề sau chiến
tranh. Qua đó bộc lộ lòng thương cảm và khẳng định bản chất lương thiện, tốt đẹp,
nhiệt tình giúp đỡ con người:
“Tôi
xoay những ô vuông. Đi dọc trường sơn gặp nhiều người bị tâm thần, hậu quả của
những cơn sốt rét ác tính. Một anh tâm thần thấy ai cũng ôm chầm vui vẻ, tay
bắt mặt mừng:
Chào
đồng hương! Có súng nục (súng lục) đưa mình chữa cò lặng (cò nặng) thành cò
nhẹ. Xong ngay !
Để
nhận ở anh chàng điên vui tính này cái nhiệt tình muốn giúp đỡ người khác
Những
người tốt, dù lúc bị điên, hoàn toàn không làm chủ được mình, vẫn còn những
biểu hiện của lòng tốt. Nó là cái gì sâu xa, dai dẳng hơn ta tưởng”.
Ngoài tình yêu thương, thông cảm thấu
hiểu trước số phận bất hạnh của con người đặc biệt là những đứa trẻ, tác giả
còn thấy được trên gương mặt chúng lóe lên những ánh sáng tài năng. Ông luôn có
niềm tin vào năng lực của những con người đó. Nếu họ được sống trong một hoàn
cảnh khác thì năng lực ấy càng được nâng cao và phát triển:
“Tôi
xoay những ô vuông. Em gái hát. Em bụi đời từ Củ Chi lưu lạc về Sài Gòn, từ Sài
Gòn em lên đây để “làm lại cuộc đời” như tuồng cải lương vẫn nói. Em hát bài
“lên ngàn”, em hát và xuyên qua đám bụi đất đỏ tôi nhìn thấy sự trong suốt, tôi
nhìn thấy mặt trời, tôi nhìn thấy những cây cao su nhảy múa. Nếu đời em khác đi
có thể em sẽ thành công dưới ánh đèn sân khấu và tôi sẽ nghe em hát hững hờ, vỗ
tay hững hờ, ra về hững hờ, khen chê hững hờ. Tôi khóc lặng lẽ. Trước cái đẹp,
trước vẻ trong sáng huyền bí của nghệ thuật, trước chiếc quần đen bạc màu có
hai miếng trước, gương mặt thanh bình của một cô gái sắp làm mẹ” .
3.4. Văn học phải phản ánh cái xấu, cái bất
nhân, vạch trần bản chất của những thế lực ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của
con người
Trong cuộc đời, muôn vạn điều trắng đen, tốt xấu cùng
tồn tại nhưng đôi lúc cái xấu lấn áp khiến lối sống con người trở nên tầm
thường, ích kỉ, dung tục. Khi xoay những ô vuông, Thanh Thảo nhìn ra con người
ấy:
“Tôi xoay những ô vuông.
Những cánh võng loáng thoáng dưới rừng già. Những đứa em tôi nói toàn chuyện
vui. Nhưng đã xuất hiện vài kẻ lười biếng và ích kỉ. Có anh chàng tên là Sanh,
ngoài bốn mươi tuổi, chuyên ngủ khi mọi người dọn bãi, lấy nước, nấu cơm…chuyên
xơi của người khác, cho đến điểm tập kết, khi chúng tôi đã cạn sạch lương thảo
thì anh ta vẫn trữ trong bòng hơn nửa ký bột ngọt, mấy ký đường. Sau đó chừng
nửa năm anh ta đi chiêu hồi.”
(Khối vuông
Rubic)
Đã gọi là cuộc đời thì bên cạnh những con người luôn tình nguyện
giúp đỡ người khác hay sẵn sàng đương đầu với những khó khăn cũng có những
người tránh né, thụt lùi về phía sau hay không làm vì việc đó không mang lại
lợi ích cho mình
“Tôi xoay những ô vuông.
Chúng tôi cùng đứng trên bãi cỏ, dưới nắng gắt. Một tiếng nói:
- anh viết đi!
Nhưng trước hết, cô gái
này cần những bàn tay giúp đỡ, đưa cô về sống như mọi người, với mọi người. Sau
đó, tôi sẽ viết. Tại sao không phải là anh chìa bàn tay ra trước nhất, anh và
những bài văn bài thơ của mình?
- Tôi hiểu nhưng chuyện này phức tạp lắm, mong
anh thông cảm
- các anh khôn thật, ở những chỗ lội, các anh đều
tìm cách tụt lại sau, cho chắc ăn… trong khi bao giờ cũng có những người lội
nước theo trước.”
(Khối vuông Rubic)
Có đôi khi họ còn vô tâm tàn nhẫn đối với
những người xung quanh bằng những hành động xấu xa của mình mà không biết hối
cải. Làm điều xấu, ác nhưng rồi quên ngay như xóa sạch một băng từ:
“Tôi
xoay những ô vuông. Con người còn là người không, khi không biết ân hận? Có
những kẻ sống và bình thản quên ngay mỗi hành động của hình như người ta xóa
sạch một băng từ. Chủ nghĩa phát xít khởi từ đó!”
(Khối
vuông Rubic)
Thơ Thanh Thảo, ngoài việc suy tư, trăn trở về bản
chất con người cá nhân, ông còn lên án cái bất nhân phi nghĩa, những thế lực
chà đạp lên quyền sống con người. Trong bài thơ “Đàn ghi-ta của Lorca”, nhà thơ xót xa trước một tài năng bị hủy
diệt:
“Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du”
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du”
(Đàn ghi-ta của Lorca)
Đây thực sự là một mất mát lớn lao của
nhân dân Tây Ban Nha, của nền nghệ thuật ở xứ sở Tây Ban Nha. Nhà thơ nhân dân,
người chiến sĩ chống phát xít. Sự hy sinh anh dũng của ông trước họng súng của
bọn phát xít Franco đã để lại nhiều tiếc thương cho nhân dân Tây Ban Nha.
Lời thơ vang lên là một chuỗi tự sự,
nhưng cấu trúc lại đứt đoạn như để nhằm diễn tả cuộc đời Lorca "nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương".
Hình ảnh thơ tả thực "áo choàng bê
bết đỏ" đã phản ánh hiện thực phũ phàng, tàn khốc đổ xuống đời Lorca.
Cái chết bi thảm của Lorca là một sự kiện chính trị lớn ở Tây Ban Nha.
Tây Ban Nha của thời Lorca còn là đất
nước sôi sục những cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, ghi ta của Lorca
cất lên lời ca tranh đấu: “Ghi ta bần bật
khóc – Không thể nào - dập tắt” (thơ
Lorca). Bởi vậy diễn tả khoảnh khắc người chiến sĩ ấy bị bọn phát xít sát
hại, Thanh Thảo cũng đã dựng nên bầu không gian kinh hoàng những ấn tượng chết
chóc. Những câu thơ tiếp nối diễn tả tột cùng cho cảm giác đau đớn uất nghẹn
trước sự tàn bạo của bọn độc tài phát xít:
“tiếng ghi ta
nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy”
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy”
(Đàn
ghi-ta của Lorca)
Lời thơ vang lên giai điệu ghi ta nâu vỡ
ra, tan hoà thành sắc màu tượng trưng cho sự sống "tiếng ghi ta lá xanh biết mấy"; rồi đột ngột kết đọng
thành những dòng máu thắm chảy ròng ròng của người nghệ sĩ Lorca hy sinh vì tự do
và nghệ thuật.
Điệp khúc dồn dập qua nhịp thơ Thanh Thảo
như đã lột tả được cái bàng hoàng căm phẫn trong bản ghi ta bi tráng! Màu nâu
của đất, của làn da rám nắng, màu xanh của lá của bầu trời như tương phản gay
gắt và dữ dội với màu đỏ ròng ròng máu chảy. Cảm giác vỡ oà đau đớn
uất nghẹn trong tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan. Nỗi kinh hoàng
trong cảm giác mất mát cũng nhân lên gấp bội, nỗi đau như xé lòng khi hình dung
ra cảnh kẻ thù sát hại người nghệ sĩ tranh đấu cho tự do.
Với đất nước Tây Ban Nha, nhà thơ tiếc
thương cho một tài năng, một nền nghệ thuật bị tiêu diệt dưới tay phát xít,
cùng với sự dã man ấy, mùa Đông 1941 người dân Nga cũng rơi vào thảm cảnh:
“Trên
nền xám đen mùa đông năm 41
trên
băng giá hồ La-đô-ga
những
giọt nước mắt đông cứng lại”
(Có
một lần tôi nghe bản giao hưởng số bảy)
Tổ quốc Nga đang vặn
mình từng cơn đau đớn dưới bom đạn B52, B52 đã hủy diệt tất cả, gót giày xâm
lược của Phát xít đã giẫm bừa lên đất nước Nga thân yêu.
“Tổ quốc
tôi vụt thấy
đáy sâu quằn quại của tâm hồn Nga
miệng núi lửa
dưới tầng tầng tuyết phủ
mùa đông chậm
chạp nặng nề
có lúc tưởng chừng không chịu nổi
gió rít trên
những giàn treo cổ
bầy trực
thăng quạt trốc từng địa hình….
ngỡ mình đi
qua mùa đông khủng khiếp ấy
cùng với nước
Nga
và cùng chúng
ta
bản giao
hưởng lăn vào đạn bom hầm hào bùn đất
cuộc chiến
tranh dài hơn bốn chương nhạc
nhưng cuộc
đời còn dài hơn cuộc chiến tranh”.
(Có một lần tôi nghe bản giao hưởng số bảy)
Tâm hồn Nga vĩ đại đang quằn quại dưới sự tàn sát dã man của Phát xít, chúng
bóp nghẹt sự sống, làm cho con người không thể thở bằng những cảnh hành hình đẫm
máu, man rợ. Tác phẩm vạch trần bản chất và lên án tội ác dã man của bọn phát
xít, là tiếng nói bảo vệ quyền sống con người.
3.5. Tác
phẩm văn học phải có tính nhân văn, có giá trị nhân văn thì tất yếu phải có giá
trị thẩm mĩ
Quan niệm thơ, quan niệm nhân sinh, quan
niệm thẩm mĩ của người cầm bút bao giờ cũng đồng hành và chuyển hóa lẫn nhau để
cùng làm nên cái lõi bí mật của đời thơ tác giả. Nếu cất công tìm kiếm, người
đọc sẽ thấy ẩn trong thế giới nghệ thuật phong phú của Thanh Thảo hai chìa
khóa: lấp lánh và lặng lẽ. Lặng lẽ
tỏa sáng, lặng lẽ làm người. Đó là cái đẹp và hạnh phúc, đó là giá trị sống,
giá trị người theo quan niệm Thanh Thảo. Thơ ông không chỉ giàu đời sống thực,
nặng tâm tình thực mà còn coi trọng gốc của thơ. Thanh Thảo cho rằng thơ là dòng sống thực của cá thể từ khoảnh
khắc sang khoảnh khắc. Một nhà thơ
có nhân cách, chỉ cần nắm bắt và thể hiện được những dòng thực đó của
mình, bản thân nó đã là thơ. Dù từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc kia có vẻ
rất bất chợt, bất định, có vẻ hỗn loạn, nhưng mỗi khoảnh khắc ấy lại bật lên
một gốc chung, xoay quanh một trục chung là nhân cách người thơ. Do đó đời sống
thực của một nhân cách thơ cũng có cấu trúc
tựa như khối rubic. Chỉ cần thành thực phơi trải, tự nó đã là thơ thứ
thiệt, thơ quí. Bởi nó là dạng thơ khước từ mọi trang sức thỏn mỏn thường tình.
Và Thanh Thảo đã đem đến cho thi đàn Việt Nam thứ thơ như thế. Người đọc biết
đến ông như một nhà cách tân hình thức, không ngừng săn tìm cấu trúc mới lạ.
Tìm kiếm trật tự cho cái hỗn loạn là sở
trường lớn của hồn thơ Thanh Thảo. Từ mỹ học, toàn bộ thơ ông luôn thấm đẫm một
vẻ đẹp của cái trật tự muôn đời giữa sự hỗn loạn. Tập thơ “Khối vuông Rubic” hẳn nhiên là rubic – thơ. Tính rubic – thơ ở
đây, không chỉ ở câu điệp khúc “tôi xoay
những ô vuông” mở đầu mỗi đoạn nhằm liên kết tất cả các đoạn rời nhỏ (như
những ô màu). Đó chỉ là liên kết bề mặt. Quan trọng hơn là tính rubic của cấu
trúc tư tưởng. Đọc kĩ, sẽ thấy toàn bộ trường ca “Khối vuông Rubic” với rất nhiều đoạn rời ý tứ tán loạn nhưng nội
dung vẫn chỉ xoay quanh một trục tư tưởng: băn khoăn chiêm nghiệm về hạnh phúc
và thơ ca. Mà nói theo Gớt, như thế là nghệ thuật.
Giá trị thẩm mĩ còn được thể hiện qua chân
dung đẹp đẽ của nghệ sĩ Lorca trong sự ngưỡng mộ, lòng đồng cảm và sự tiếc
thương sâu sắc của tác giả Thanh Thảo. Xuyên suốt bài thơ “Đàn ghi-ta của Lorca”, song hành với hình tượng Lorca là hình
tượng cây đàn. Tiếng đàn cất lên tiếng lòng của Lorca trước cuộc sống, trước
thời đại. Nó là linh hồn, là tinh thần của Lorca, và hơn hết là số phận của nhà
thơ vĩ đại này:
"khi
tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn"
PH.G.LORCA
Thanh Thảo đã gợi vẻ đẹp của tiếng đàn
dựa trên những liên tưởng ngoài thơ: “tiếng
đàn bọt nước”, ta chợt thấy hình ảnh có những nét tương đồng trong ca dao:
“Trời mưa bong bóng phập phồng”. Bọt
nước dường như là hiện thân của số phận tiếng đàn thật mong manh, ngắn ngủi và
dễ vỡ. Câu thơ tuy giản dị nhưng khắc hoạ rõ nét định mệnh phũ phàng, chông gai
đang đón chờ người nghệ sĩ tài hoa phía trước.
Trong xử lý thi liệu, Thanh Thảo có dùng
những lối kết hợp khá phổ biến ở thơ tượng trưng. Ta gặp những tiếng đàn bọt nước, tiếng ghi-ta nâu, tiếng ghi-ta lá xanh, tiếng
ghi-ta tròn, tiếng ghi-ta ròng ròng máu chảy, về miền đơn độc, vầng trăng chếnh
choáng, chôn cất tiếng đàn, đường chỉ tay, dòng sông rộng... Đường chỉ tay
là hiện thân của thiên mệnh. Đường chỉ tay đã đứt tượng trưng cho cú giáng phũ
phàng trái ngang của số mệnh. Chiếc ghi-ta tượng trưng cho âm nhạc và thơ ca.
Lá bùa cô gái di-gan là cái đẹp huyền bí. Xoáy nước là tai hoạ định mệnh trên
dòng sông của số phận, cũng là cái dòng sông ranh giới giữa cõi sống và cõi
chết, giữa thực tại và hư vô. Hành động ném lá bùa và ném trái tim đều giàu hàm
ý tượng trưng về sự giã từ, sự giải thoát của Lorca. Câu “giọt nước mắt vầng trăng” bày tỏ nỗi đau xót và tiếc thương trước
cái chết hết sức thương tâm của Lorca mà lời thơ kết hợp cả trượng trưng thơ
Đường với tượng trưng Thơ Mới cũng thấy được vẻ súc tích của nó.
Những nhà thơ da đen là những con người
bình thường. Họ là đối tượng bị phân biệt chủng tộc, màu da. Họ sống ở xứ sở
nắng cháy, đói khát nhưng tác giả đã nhìn nhận họ với thái độ khác, với tình cảm
khác. Vẻ bề ngoài đó không làm ông bận tâm, ông chỉ quan tâm đến “chiều sâu”, “chất liệu”. Bởi vì, ông biết thơ của họ không là những giáo điều
sáo rỗng mà nó được hun đúc từ những giá trị của cuộc sống. Con người không bị
ru ngủ, không bị mê muội trong đạo đức dối trá mà con người thật sự tìm thấy
chân, thiện, mĩ của đời qua những “câu
thơ như ngọc, câu thơ như bùn”. Thơ của các ông bây giờ “như bánh mới ra lò”. Người đọc có thể
ngửi thấy mùi thơm, có thể nhấm nháp chất tinh túy từ chiếc bánh. Sâu xa hơn,
đó chính là mùi thơm, chất tinh túy của thơ.
Tác giả đã dùng bản giao
hưởng số bảy để miêu tả đề tài chiến tranh. Hình ảnh âm nhạc ấy thật đẹp, thật
độc đáo. Nó có một sức mạnh vĩ đại đã len vào từng ngỏ ngách của đời sống, của
tâm hồn con người để cổ vũ, động viên những tâm hồn Nga vượt qua đau thương mất
mát của chiến tranh, giữ vững ngọn lửa yêu nước, chiến đấu đưa đất nước đi đến
bến bờ vinh quang.
“âm nhạc của
thiên tài chia sẻ
với ta, cách
giữ gìn ngọn lửa
với ta, những
giây phút cay đắng khốn khổ
trước khi đến
những tràng pháo hoa vinh quang
Tổ quốc
không chỉ
hiện lên trong chói lọi tiếng kèn đồng
mà giữa quãng
lặng im
giữa hơi thở
sâu thẳm của đàn dây
hay nhịp
nhanh vũ điệu vòng tròn
tôi nghe một
giọng trầm trầm day dứt”
(Có một lần tôi nghe bản giao hưởng số bảy)
Giá trị thẩm mĩ còn được thể hiện ở vẻ đẹp tâm hồn của
người lính với những phẩm chất như tình đồng đội, tinh thần bất khuất, lạc
quan, dũng cảm, tình yêu nước, yêu đồng bào, và là những sự chia sẻ cho nhau
trong chiến đấu gian khổ qua những hình ảnh đơn sơ, giản dị và tình cảm chân
thành, mộc mạc:
“ Vài gói mắm
cùng nắm cơm nho nhỏ
bếp dã chiến
cháy dọc bờ suối đá
treo tòn ten
mấy ống cóng canh chua
nấu lá giang
và mắm ruốc
tất cả những
gì chúng tôi có được
đều trải cho
nhau
trải ra đất
thật tình
với quân thù
– chi đến tối đa
với bạn bè –
phải chơi hết mình”
…………….
“Thế hệ chúng
tôi không chỉ sống bằng kỷ niệm
không dựa dẫm
những hào quang có sẵn
lòng vô tư
như gió chướng trong lành
như sắc trời
ngày nắng tự nhiên xanh”
(Một người lính nói về thế hệ mình)
Tóm lại, tập thơ “Khối vuông Rubic”, Thanh Thảo viết như một lời tuyên ngôn có tính
chất tranh luận không chỉ của riêng mình mà chung cho cả một giai đoạn “Người ta đã nhìn trái đất từ nhiều hướng và
trái đất chưa bao giờ được khám phá. Người ta đã thăm dò con người bằng vô số
cách mà con người vẫn là một bí mật”.
4. Những vấn đề còn băn khoăn (cần trao đổi)
Thơ của Thanh Thảo giàu suy tư, mãnh liệt, phóng túng
trong xúc cảm và đương nhiên không dễ hiểu vì ít nhiều nhuốm màu sắc tượng
trưng, siêu thực.
Trong khối vuông Rubic còn những từ trong ngoặt theo chúng tôi
là thừa:
“Tôi xoay những ô vuông.
Đứa con nhỏ của tôi (bị) lên sởi, (cháu) sốt cao, không ăn uống (gì) được. Hộp
sữa “Thống Nhất” giá (một) trăm đồng, (tức là) bằng nửa tháng lương. Trách móc,
than thở, hay chờ con cái (sẽ) cứu giúp (chúng ta)?”
“Tôi
xoay những ô vuông. Đi dọc trường sơn gặp nhiều người bị tâm thần, hậu quả của
những cơn sốt rét ác tính. Một anh tâm thần thấy ai cũng ôm chầm vui vẻ, tay
bắt mặt mừng:
Chào
đồng hương! Có súng nục (súng lục) đưa mình chữa cò lặng (cò nặng) thành cò
nhẹ. Xong ngay!
Để
nhận ở anh chàng điên vui tính này cái nhiệt tình muốn giúp đỡ người khác
Những
người tốt, dù lúc bị điên, hoàn toàn không làm chủ được mình, vẫn còn những
biểu hiện của lòng tốt. Nó là cái gì sâu xa, dai dẳng hơn ta tưởng”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét