Phan tich net tru tinh trong bai tho Trang Giang cua Huy Can – Đề bài. Em hãy viết bài văn phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận. Bài làm của Nguyễn Thị Phương Thảo lớp 11c2 khối chuyên văn trường THPT chuyên Nguyễn Tất Thành.
Trong thơ Huy Cận
trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thiên nhiên rất đẹp, rất quyến rũ hồn người
nhưng nó thường bị vây phủ bởi một nỗi buồn. Nhà thơ hay đặt mình con người hữu
hạn vào thời gian vô hạn và không gian vô biên để suy ngẫm về sự sống của vũ
trụ, từ những cái thường ngày nhỏ nhặt mà đề cập tới những vấn đề to lớn của
trời đất, trăng sao… Nhưng cảm quan đó dù có ít nhiều màu sắc triết lý cũng
không thoát khỏi nỗi buồn man mác. Đất nước, thiên nhiên trong bài thơ Tràng
giang cũng thấm sâu một nỗi buồn như thế. Bài thơ thể hiện tâm trạng của “cái
tôi trữ tình” cô đơn, thấm đượm nỗi sầu nhân thế trước thiên nhiên mênh mông,
hiu quạnh và tấm lòng yêu nước thầm kín của thi sĩ.
Lời đề từ tuy nằm
ngoài bài thơ, nhưng lại đúc kết nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác
giả: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Có thể coi hình tượng và cảm xúc trong
câu thơ này là nguồn thi hứng để thi sĩ sáng tác nên bài thơ Tràng giang bất
hủ. Nó khiến cho không chỉ “cái tôi trữ tình” nặng trĩu nhớ nhung, mà đất trời
sông núi cũng tràn ngập bâng khuâng, nhung nhớ. Cái độc đáo của câu thơ này
chính là sự giao thoa của cả hai nghĩa ấy. Huy Cận đã triển khai cảm hứng nêu ở
câu thơ để từ một cách hoàn hảo trong suốt bài thơ Tràng giang.
Ở khổ thơ thứ nhất,
hai câu đầu đặc tả cảnh sông nước quen thuộc trải rộng ra trong một không gian
mênh mông, bát ngát:
Sóng gợn tràng giang
buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Nếu câu trên, sự vô
biên được mở ra với hình ảnh những lớp sóng tiếp nối nhau, xô đuổi nhau điệp
điệp thì ở câu dưới nó lại được đặc tả qua hình ảnh con thuyên xuôi mái theo
những luồng nước song song rong ruổi về mãi cuối trời.
Sóng gợn nhấp nhô trên
mặt sông bao la thì buồn cũng dồn đuổi nhau điệp điệp hết lớp này tới lớp khác
trong hồn người, vần ang trong tràng giang có dư âm vang xa, tạo nên âm hưởng
chung cho bài thơ. Mặt khác, tràng giang còn gợi lên được hình ảnh một con sông
không những dài mà còn rộng. Cái nhỏ nhoi của con thuyền càng làm nổi bật cái
rộng dài tưởng chừng vô tận của dòng sông. Sức mạnh của hai câu thơ trên không
chỉ là ở nghệ thuật miêu tả, mà còn ở nghệ thuật khơi gợi cả xúc cảm và ấn
tượng về một nỗi buồn triền miên theo không gian (tràng giang) và theo thời
gian (điệp điệp).
Thuyền về nước lại sầu
trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền về bến, neo lại
nghỉ ngơi, mặt sông vắng bóng thuyền, nước đành chia sầu trăm ngả. Củi một cành
khô lạc mấy dòng không biết trôi về nơi nao. Hình ảnh đơn sơ mà có sức gợi sự
liên tưởng sâu xa tới thân phận cô đơn, lênh đênh, sầu thảm của kiếp người thời
ấy.
Đến khổ thơ thứ hai,
bức tranh tràng giang có thêm cảnh, thêm người nhưng nỗi buồn không vơi mà như
càng thấm sâu vào cảnh vật:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu
hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Khung cảnh chứa đầy
tâm trạng. Huy Cận đã tập trung tất cả hình ảnh, nhạc điệu để làm nổi bật lên nỗi
buồn thấm thía của con người trước sông dài trời rộng. Nỗi buồn được gợi lên từ
mặt nước mênh mông, đôi bờ hoang vắng, từ một cồn nhỏ lơ thơ heo hút, dăm bụi
cây phơ phất trong gió lạnh đìu hiu.
Lắng nghe đâu đây, từ
làng xa vẳng lại tiếng chợ chiều đang vãn, tuy có hơi hướng con người nhưng âm
thanh mơ hồ như từ cõi nào vọng lại, làm dấy lên trong lòng lữ khách nỗi khát
khao được gặp gỡ và chia sẻ tâm tình.
Nỗi buồn toả ra hết
chiều cao, chiều rộng của bến bãi, mặt nước, bầu trời. Ở đây, người đọc bắt gặp
cảm nhận tinh tế, kì diệu của nhà thơ qua một chi tiết hết sức bất ngờ: sự
chuyển đổi cảm giác trời lên cao thành sâu chót vót đặc tả độ cao rợn ngợp của
bầu trời và khoảng cách vô tận giữa trời và nước. Từ đó tạo nên ấn tượng sông
thêm dài, trời thêm rộng và bến sông vốn đã vắng vẻ lại càng cô liêu hơn, quạnh
quẽ hơn.
Bèo dạt về đâu, hàng
nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Vẫn trong mạch cảm
xúc, nỗi buồn được gợi ra từ hai khổ thơ đầu qua các hình ảnh: những cánh bèo
trôi dạt lênh đênh, những con thuyền, dòng nước như cùng trôi về cõi vô biên,
củi một cành khô lưu lạc bồng bềnh trên sóng nước thì đến khổ thơ này ấn tượng
về khung cảnh mênh mông vắng lặng, về sự chia li tan tác được láy lại và nhấn
mạnh bằng hai lần phủ định: Không một chuyến đò, Không cầu gợi chút niềm thân
mật. Người cô đơn gặp cảnh hoang vắng tĩnh mịch đến lạnh lùng như thế thì nỗi
cô đơn càng đậm, càng sâu. Ước mong khao khát tìm được một chút hơi hướng ấm áp
của con người nhưng chỉ thấy toàn bờ xanh tiếp bãi vàng hun hút tới tận chân
trời và chỉ có những cánh bèo không biết sẽ trôi dạt về đâu giữa tràng giang
bát ngát. Toàn là hình ảnh gợi nỗi buồn thương, tan tác, chia li.
Sông dài, trời rộng
không có bóng dáng con người. Không một chuyến đò và cũng không cầu để tạo nên
cảm giác gần gũi giữa con người với nhau mà chỉ toàn là thiên nhiên (bờ xanh)
với thiên nhiên (bãi vàng) xa vắng, mênh mang. Vì thế, nỗi buồn ở bài thơ này
không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn
nhân thế, nỗi buồn thời cuộc.
Bốn câu cuối thể hiện
rất rõ tâm trạng tác giả và ý tưởng chung của toàn bài. Nỗi buồn sâu thẳm từ
con người đã thấm sang cảnh vật:
Lớp lớp mây cao đùn
núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Cảnh sắc thiên nhiên
tuyệt đẹp nhưng vẫn mang dáng vẻ cô đơn. Mây cao đùn lớp lớp thành ngọn núi bạc
chơ vơ trong hoàng hôn, giống như nỗi buồn chất ngất trong lòng người lữ thứ.
Giữa trời đất bao la chỉ còn lại một cánh chim nhỏ chở nặng bóng chiều sa. Tất
cả đều cô đơn, lẻ loi đến tội nghiệp và con người dường như chìm ngập
trong vũ trụ rộng lớn, bao la. Giữa cảnh Tràng giang ấy, nỗi buồn của kẻ tha
hương lại càng da diết, khắc khoải:
Lòng quê dợn dợn vời
con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Câu thơ gợi nhớ tới
một tứ thơ Đường: Yên ba giang thượng sử nhân sầu (Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu).
Tản Đà dịch: Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Tuy nhiên, hai câu thơ của
Huy Cận có nét mới hơn. Người khách trong thơ Thôi Hiệu nhìn thấy khói toả,
sóng gợn mà nhớ tới quê hương; còn nhân vật trữ tình trong Tràng giang đứng
trước cảnh sông không khói hoàng hôn mà vẫn rưng rưng nỗi nhớ về một miền quê
xa khuất.
Âm điệu thơ trầm buồn
có sức lay động tận nơi sâu thẳm của tâm hồn người đọc. Huy Cận đã tiếp thu thế
mạnh của thể thơ bảy chữ, kết hợp với từ ngữ hàm súc, tinh tế để thể hiện sự
chân thành, thiết tha của một tấm lòng nhớ nhung, hoài vọng quê hương. Bao phủ
toàn bài thơ là một nỗi buồn lan rộng và thấm thía. Đó là nỗi buồn của kiếp
người nhỏ bé, hữu hạn trước cái vô biên, vô tận của vũ trụ vĩnh hằng. Tuy
nhiên, đó là nỗi buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn của bạn
đọc.
Tràng giang đã kết hợp
được những nét cổ điển của thơ Đường, vẻ đẹp của truyền thống thơ ca dân tộc
cùng dáng dấp hiện đại của Thơ mới. Tấm lòng nhà thơ đã dàn trải ra thành những
hình ảnh, âm điệu, màu sắc vừa đơn sơ giản dị, vừa đẹp đẽ thanh cao. Bài thơ
phản ánh tâm trạng của một trái tim cô đơn, một “cái tôi trữ tình” đau đáu nỗi
buồn trước cuộc đời. Nỗi buồn sâu xa ấy đã hòa vào nỗi bơ vơ, cô độc trước
khung cảnh thiên nhiên hoang vắng. Tuy vậy nhưng tình cảm của nhà thơ Huy Cận
đối với non sông đất nước thể hiện qua bài thơ cũng thật thiết tha, sâu lắng.
Đúng như nhận xét của nhà thơ Xuân Diệu: “Tràng giang là một bài thơ ca hát non
sông đất nước, do đó dọn dường cho lòng yêu giang sơn, Tổ quốc”.
Theo: Thái Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét