Bài thơ Tự tình
II
Hồ Xuân Hương có một chùm ba bài thơ Tự tình. Đó là chùm thơ Nôm được viết bằng
bút pháp trữ tình vừa sâu lắng, vừa mãnh liệt. Mỗi bài Tự tình đều chan chứa nỗi đau thầm kín, nặng nề; bộc lộ cảnh ngộ và
thân phận của Hồ Xuân Hương, đồng thời cũng thể hiện nhân cách, bản lĩnh, tài
năng trác việt của bà.
Mỗi bài trong chùm thơ Tự tình đều là tiếng nói của trái tim, của nỗi lòng nữ sĩ.
Chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe nỗi lòng của nữ sĩ vọng
về từ hao trăm năm trước qua Tự tình II
1. Hai câu đề
Đêm khuya
văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng
nhan với nước non.
Câu phá đề mở ra thời gian và không gian nghệ thuật rất
đặc biệt: đêm đã về khuya, không gian quá mênh mông và vắng lặng. Chính là nhờ
tính từ “văng vẳng” được nữ sĩ dùng vừa
tự nhiên, vừa rất tinh tế mà ta nhận ra cùng một lúc không gian mênh mông (tiếng
trống cầm canh từ xa xôi theo gió “vẳng”
tới,vọng tới; và không gian vắng lặng (bút pháp lấy động tả tĩnh quen thuộc của
thi pháp cổ điển). Đã có hai trong tổng số ba bài thơ Tự tình nhà thơ chọn thời gian và không gian nghệ thuật giống nhau
đặt ở câu phá đề. Cách cảm nhận bước đi của thời gian qua tiếng trống điểm canh
và tiếng gà gáy là cách cảm nhận rất Á Đông. Đó là thời gian tâm lí, thấm đẫm
chất trữ tình. Đêm khuya là lúc vạn vật chìm trong giấc ngủ, mọi hoạt động ban
ngày dừng lại, đó cũng là lúc tâm tư sâu lắng nhất. Người đang thao thức, suy
tư trong đêm khuya lại là một phụ nữ. Đó cũng là điều bất thường. người phụ nữ
được đặt trong một không gian mênh mông vắng lặng, giữa đêm hôm khuya khoắt chắc
là đầy ắp nỗi niềm không biết ngỏ cùng ai, chẳng coái bên cạnh đề mà sẻ chia,
thấu hiểu. Nàng hoàn toàn trơ trọi, lẻ loi, cô độc. Thời gian nghệ thuật thể hiện
sự tự cảm thấy của con người trong thế giới. Cảm thức thời gian luôn gắn liền với
ý thức về “cái tôi”. Ý thức về “cái tôi” càng trưởng thành, càng sâu sắc
thì cảm thức về thời gian trôi chảy càng mãnh liệt. Đã đành thời gian khách
quan là vô thủy vô chung. Nhưng thời gian chủ quan của một đời người là hữu hạn.
Tuổi xuân của người phụ nữ lại càng ngắn ngủi, cho nên thời gian trong cảm thức
cá nhân gắn liền với sự tàn phai và có sức hủy diệt ghê gớm. Cái tiếng “trống canh dồn” kia cũng là một thứ âm
thanh tâm lí, nó như “dồn” nén lòng
người, nhất là lòng người phụ nữ cô đơn, niềm phẫn uất, nỗi hoang mang, lo sợ.
Cái đáng sợ nhất là cảm thức về sự trôi chảy của thời
gian luôn luôn ở thế nghịch đối với niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau của
con người. khi vui sướng, hạnh phúc thì có cảm giác “ngày vui ngắn chẳng tày gang” (Nguyễn Du); khi sầu thương, đau khổ
thì thời gian bò như ốc, như sên. Trong thời gian và không gian ấy, với Hồ Xuân
Hương, chỉ còn lại cái vô duyên, bẽ bàng:
Trơ/ cái hồng nhan/ với nước non.
Trong phép đảo ngữ, nữ sĩ đã đặt tử “trơ” lên đầu câu thơ gây một ấn tượng mạnh
mẽ. Từ “trơ” đứng riêng ra,ăn hẳn một
nhịp vừa nói được thế lẻ loi, trơ trọi lại vừa nói đến sự vô duyên (trơ ra). Từ
“trơ” còn hàm chứa nhiều ngữ nghĩa
hơn thế: “trơ” có nghĩa là tủi hổ: “Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ” (Nguyễn
Du, Truyện Kiều); “trơ” cũng hàm ý mỉa
mai cay đắng, xót xa khi đi với tổ hợp từ “cái
hồng nhan”, thì ra “hồng nhan” đi
với “bạc phận”, từ “hồng nhan” bị bỏ rơi, chẳng ai đoái hoài
đến, đang “trơ” ra với “nước non” (không gian), với thời gian vô
thủy vô chung. Càng nghĩ càng thấy phẫn uất, đắng đót, ngậm ngùi. Đời Hồ Xuân
Hương sao chẳng thể vui với nước non, mà chỉ thấy “Bảy nổi ba chìm với nước non”, chỉ thấy “Trơ cái hồng nhan với nước non”? Nghĩa là Hồ Xuân Hương đau khổ những
vẫn vững vàng bản lĩnh như “Đá vẫn trơ
gan cùng tuế nguyệt” (Bà huyện Thanh Quan, Thăng Long thành hoài cổ)
2. Hai câu thực
Chén rượu
hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng
bóng xế khuyết chưa tròn
Tên của bài thơ là Tự
tình cho nên câu thực đầu tiên thể hiện tình thực của Hồ Xuân Hương. Trong
cô đơn giữa đêm khuya vắng lặng, người phụ nữ ấy đã phải mượn đến chén rượu giải
sầu đã là chuyện đầy vơi của nỗi niềm, tâm trạng. Người phụ nữ đến chén rượu đọc
ẩm đêm khuya mới là việc cực chẳng đã. Uống rượu mà như uống sầu uống tủi, như
nuốt thầm giọt đắng giọt cay. “Say”,
có thể lãng quên giây lát nỗi sầu thương. Nhưng “say” rồi sẽ lại “tỉnh”,
và lúc ấy mới thật là buồn: “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh- Giật mình, mình
lại thương mình xót xa” (Nguyễn Du, Truyện Kiều). Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng luẩn quẩn,
bế tắc trong tâm trạng, trong tình cảnh của Hồ Xuân Hương.
Đêm đã tàn canh. Vầng trăng lạnh đã “bóng xế” non đoài. Người còn ngồi đó
trong tình trạng “say lại tỉnh”, đúng
là “Trơ cái hồng nhan với nước non”.
Hai câu thực đã triển khai ý chủ đạo được mở ra hai câu đề. Thực cảnh cũng là
thực tình. Hình tượng “Vầng trăng bóng xế
khuyết chưa tròn” đang đồng nhất với thân phận của nữ sĩ. Hình tượng thơ hết
sức gợi: tuổi xuân của ngươi phụ nữ trôi mau như “vầng trăng bóng xế” mà nhân duyên không trọn vẹn như vầng trăng
chưa bao giờ là trăng rằm tròn đầy, tỏa sáng.
3. Hai câu luận
Xiên ngang mặt
đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân
mây đá mấy hòn
Nỗi niềm phẫn uất dồn nén đã nhiều, không còn ở yên
trong lòng được nữa, nó trào ra, thấm vào cảnh vật, tiếp cho mọi vật sức công
phá. Nỗi rung động trong lòng mà có sức rung như một cơn động đất. Những động từ
kết hợp kết hợp với những bổ ngữ rất mạnh và rất gợi(: “xiên ngang”, “đâm toạc”) mang ý nghĩa phản kháng, nó làm cho những câu thơ của Hồ Xuân Hương như nổi loạn.
Nỗi buồn trong thơ Hồ Xuân Hương không làm lòng người mềm yếu, trái lại, có sức
mạnh cổ vũ con người, nhất là người phụ nữ, đứng dậy ngay trong bi kịch của đời
mình.
4. Hai câu kết
Ngán nỗi xuân
đi xuân lại lại,
Mảnh tình san
sẻ tí con con!
Giọng điệu câu thơ có ý vị của tiếng cười khẩy mỉa mai
chua chát nhiều hơn là buồn tủi. Từ “xuân”
trong cau thơ của Hồ Xuân Hương thật đa nghĩa. “Xuân” là mùa xuân của đất trơi, mùa xuân của tuần hoàn. “Xuân” là tuổi xuân của một đời người,
xuân ấy một đi không bao giờ trở lại. Nói như thi sĩ Xuân Diệu: “ Nói làm chi xuân vẫn tuần hoàn- Nếu tuổi trẻ
chẳng hai lần thắm lại!” (Vội vàng).
Đó là một tâm sự rất buồn, một nỗi sầu nhân thế vạn cổ, nó xuyên suốt từ thơ ca
trung đại sang thơ ca hiện đại.Hai từ “lại”
xếp cạnh nhau một câu thơ nhưng mang hai ý nghĩa khác nhau: từ “lại” thứ nhất mang nghĩa “thêm lần nữa”; từ “lại” tiếp theo mang ý nghĩa của “sự tuần hoàn”, “sự trở lại”.
Mùa xuân của đất trời trở lại thì ngày xanh của tuổi xuân lần lượt ra đi. Cách
nói giảm dần càng làm cho nghịch cảnh éo le hơn: Mảnh tình- san sẻ- tí- con con. Mảnh tình đã là bé, lại bị “san sẻ” trở nên nhỏ bé hơn, cuối cùng chỉ
còn “tí con con”, thật là tội nghiệp!
Người phụ nữ trong bài thơ sau những vật vã gắng gượng vươn lên, vẫn không
tránh khỏi bi kịch bởi vì thời đại ấy chưa thể chỉ ra lối thoát cho họ
Tự tình II hàm chứa ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đó là tiếng lòng
đau buồn, phẫn uất trước duyên phận hẩm hiu,là gắng gượng vẫy vùng vươn lên
nhưng rốt cuộc vẫn không thoát khỏi bi kịch của nữ sĩ. Bài thơ cho thấy khát vọng
sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt và tài năng độc đáo của “Bà chúa thơ Nôm” trong nghệ thuật sử dụng
từ ngữ và xây dựng hình tượng.
Theo Kĩ năng đọc – hiểu văn bản ngữ
văn 11, Nxb Gd
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét