ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiên cứu văn chương
trong bối cảnh lí luận văn học hiện đại từ góc độ thi pháp học (tức là xem văn
chương như một chỉnh thể, một hệ thống và cấu tạo nên hệ thống đó là một loạt
các thành tố tương tác với nhau một cách có quy luật) là một trong những cách
tiếp cận rất khoa học mà nhân lọa có đến nay. Trong đó có một phạm trù rất quan
trọng của thi pháp học chi phối việc đánh giá sự thành công trong sáng tạo nghệ
thuật của người nghệ sĩ là quan niệm nghệ
thuật về con người. Trên cơ sở lí luận ấy, người viết chọn vấn đề quan niệm
nghệ thuật về con người trong tác phẩm “Cánh
đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư để từ đó thấy được một quan niệm ngòi bút
sắc sảo của chị khi viết về những dân nông thôn của vùng đất Nam bộ này.
NỘI DUNG
1.
Đôi nét về tác giả Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn
trẻ của vùng đất tận cùng của Tổ quốc. Chị sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt,
huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Nguyễn
Ngọc Tư là một hiện tượng văn học độc đáo khiến đông đảo bạn đọc trong và ngoài
nước quan tâm.
Sau hơn mười năm cầm bút (tính từ
1997 đến năm 2009), Nguyễn Ngọc Tư đã có 11 đầu sách được xuất bản. Trong số
các tác phẩm đã in, tập truyện Cánh đồng bất tận được coi là thành công
hơn cả. Tính đến tháng 02 năm 2007, tập truyện Cánh đồng bất tận
đã tái bản đến lần thứ 12. Năm 2007, Nguyễn Ngọc Tư được mời sang Hàn Quốc để
nói về Cánh đồng bất tận và tác phẩm này được dịch ra tiếng Hàn. Đầu năm
2009, cũng chính Cánh đồng bất tận được chuyển thể thành một kịch bản
cùng tên.
Cả nước biết đến Nguyễn Ngọc Tư như
một trong những cây bút tài năng góp phần làm sống động nền văn học. Nhà văn Dạ
Ngân khẳng định: “Nhờ có Nguyễn Ngọc Tư mà “nền
văn học Nam Bộ cao lên được mấy thước”. Thậm chí, có ý kiến cho rằng: “Nguyễn Ngọc Tư đã góp phần đưa văn học vùng
ra khỏi cái khuôn sáo “ngô nghê mà thiếu tự nhiên” đã tồn tại quá lâu trong
văn học Đồng bằng sông Cửu Long”
2. Tóm tắt truyện ngắn “Cánh đồng
bất tận”
Truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” lấy bối cảnh miền Tây Nam Bộ. Ở nơi đó, ông Út
Vũ là một nông dân chân chất, hiền lành làm nghề thợ mộc. Rồi một ngày, ông
tình cờ gặp một cô gái xinh đẹp đang ngồi khóc trên bến sông. Cô gái xinh đẹp,
có “nụ cười lấp lánh cả khúc sông” và
“làn da trắng như bông bưởi” ấy đã
làm xiêu lòng trái tim của Út Vũ. Cả hai nên vợ nên chồng, sống hạnh phúc bên
căn nhà lá nằm cạnh con sông Dài có những hàng mắm cặp mé sông và có với nhau
hai đứa con: Nương, Điền .
Hạnh phúc không ở lâu với
gia đình Út Vũ. Cuộc sống nghèo khó, lại rày đây mai đó khiến ông không thể giữ
được tình yêu của người vợ đang trong thời kỳ xuân sắc. Cô “bỏ nhà theo trai”, để lại cho chồng
hai đứa con nhỏ bơ vơ và mái nhà tranh vách lá. Hận vợ phụ tình, ông
Vũ đốt nhà, dắt con phiêu bạt trên chiếc ghe đi chăn vịt từ cánh đồng này đến
cánh đồng khác. Thời gian thấm thoát trôi, những cánh đồng mà cha con ông Vũ đi
qua không sao kể xiết, nhưng nỗi hận trong lòng ông vẫn không thể nguôi ngoai.
Nó khiến ông ngày càng trở nên cộc cằn và cáu gắt. Trong khi đó, Nương lớn lên
ngày càng xinh đẹp như mẹ. Bao nhiêu bực dọc, bao nhiêu uất ức và căm hận của
ông vì thế đều trút lên hai đứa con của mình và lên những người đàn bà mà ông
bắt gặp. Ông hận tất cả đàn bà. Ông để họ yêu mình và rồi lại bỏ rơi họ theo cách
mà ông đã từng bị bỏ rơi.
Cuộc sống nặng nề và u ám của ba cha
con ông Vũ cứ thế tiếp diễn, ngày qua ngày. Cho đến một ngày kia, hai chị em
Nương và Điền tình cờ giải cứu cho cô gái điếm tên Sương đang bị những
người đàn bà trong xóm đánh ghen, tra tấn. Sự xuất hiện của Sương đã mang lại
chút không khí đầm ấm cho hai đứa bé thiếu tình thương của cha mẹ, cho những
bữa cơm của Nương và Điền thêm phần ấm áp và cho cuộc sống tinh thần của hai chị
em bớt tẻ nhạt. Tuy nhiên, đối với ông Vũ, sự xuất hiện của Sương càng khiến
vết thương của ông thêm phần nhức nhối. Ông vẫn lạnh lùng, vẫn cáu gắt và đay
nghiến thân phận “làm đĩ” của Sương,
dù có thể ở tận sâu đáy lòng mình, ông có dành cho Sương một chút tình cảm,
giống như là tình yêu. Trớ trêu thay, người phụ nữ “làm đĩ” ấy lại đem lòng yêu ông Vũ. Cô làm tất cả để bảo vệ ba cha
con ông, kể cả việc “đi đêm” với hai
cán bộ kiểm dịch để đổi lấy đàn vịt. Tuy nhiên, tình yêu ấy lại được đáp
lại bằng sự chua chát và thái độ thù hận. Sương quyết định bỏ đi. Điền cũng bỏ
nhà đi tìm Sương. Chỉ còn lại Nương và ông Vũ, tiếp tục cuộc hành trình cô độc
trên những cánh đồng bất tận…Cho đến một ngày, khi trái tim của ông Út Vũ dần
nguôi ngoai, tình thương của người cha quay về thế chỗ cho những hận thù thì
một biến cố lớn lại ập đến cho gia đình ông Vũ, cho cô con gái tội nghiệp của
ông…Trên “cánh đồng bất tận”, con gái
ông bị bọn côn đồ ăn cắp vịt cưỡng hiếp trước sự bất lực của người cha.
3. Khái niệm quan niệm nghệ thuật về con
người.
“Văn học là nhân học, đối tượng thể hiện chủ yếu của nó là
con người”. Chúng ta
không thể lí giải một hệ thống văn, thơ mà bỏ qua con người được thể hiện trong
đó. Tuy nhiên sự miêu tả con người trong văn học không bao giờ là sự sao chép,
chụp ảnh và tâm hồn nhà văn cũng không như một tấm gương trong cho sự phản
chiếu nào. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật, kể ra, miêu tả ra nhân vật, nhân vật
bao giờ cũng hiện ra theo cách hình dung, cảm nhận của tác giả, tức là mỗi nhà
văn đều có một quan niệm khác nhau về con người. Trong lịch sử văn học chẳng những
con người với tư cách là đối tượng của văn học đổi thay, mà ngay quan niệm
nghệ thuật về con người cũng thay đổi
làm cho khả năng chiếm lĩnh con người trong văn học ngày càng sâu sắc, phong
phú và tạo thành lịch sử của sự miêu tả con người trong văn học.
3.1.Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc lí giải,
cảm thụ của chủ thể
- Trong quyển “ Giáo trình Thi pháp học” của GS. TS. Trần Đình Sử
+ “Nhà văn không thể miêu
tả đối tượng mà không có quan niệm về đối tượng. Quan niệm là một phương tiện
thiết yếu của sáng tạo nghệ thuật”. Ý kiến này xem quan niệm vừa là cái chi
phối đối tượng vừa chuyển hóa vào cách xây dựng hình tượng.
+ “Quan niệm nghệ thuật
gắn liền với thế giới quan, với quan điểm triết học, chính trị. Nhưng nó có sự
chuyển hóa từ quan niệm chính trị, quan niệm triết học sang quan niệm nghệ
thuật. Quan niệm ấy gắn liền với phương tiện nghệ thuật (…). Khi nhà văn thay
đổi quan niệm nghệ thuật thì cũng thay đổi luôn phương tiện. Do đó muốn đổi mới
nghệ thuật thơ ca trước hết phải đổi mới
quan niệm”. Quan niệm này đã phân biệt quan niệm nghệ thuật về con người với
quan niệm về con n gười của triết học , khoa học, xã hội học, đồng thời xem
quan niệm là cái giúp đánh giá sự đỏi mới tư duy nghệ thuật của tác phẩm.
+ “Không phát hiện được quan
niệm nghệ thuật về con người thì không
thể tiếp cận nghệ thuật một cách nghệ thuật. Quan niệm nghệ thuật về con người
gắn liền với cá tính sáng tạo của nhà văn, gắn liền với sự vận động của lịch
sử”.Đây là sơ sở lịch sử xã hội văn hóa của quan niệm nghệ thuật về con người.
- Quan niệm của tác giả tập tiểu luận “Lý luận và phê bình văn học ” của GS.
TS. Trần Đình Sử:
+ “Sự hứng thú với vấn đề
quan niệm nghệ thuật đánh dấu sự đổi thay đáng kể trong hệ hình tư duy, sự
chuyển dịch chú ý từ đối tượng, từ sự phản ánh khách thể sang chủ thể và hệ quy
chiếu của nó. Một thời gian dài quan niệm sáng tác bị đồng nhất vào thế giới
quan, mà thế giới quan được hiểu một cách quy phạm như một phạm trù bất biến
(…)trong khi thực chất của sáng tạo nghệ thuật là trên cơ sở hấp thụ các yếu tố
thế giới quan nhất định của thời đại, tạo ra quan niệm của mình về thế giới và
con người. Do vậy, khái niệm “quan niệm” đòi hỏi phải nhìn sâu vào thực chất
sáng tạo tư tưởng của nhà văn, phân biệt tác giả có quan niệm và tác giả không
có quan niệm”. Ý kiến này xem quan niệm là sự thể hiện chủ quan rất riêng của
người nghệ sĩ.
+ “Trong nhệ thuật, thế
giới được quan niệm hóa trên cơ sở sự cảm thụ cá nhân về một thế giới thỏa mãn
nhu cầu về sự tồn tại của nó. Nghệ thuật nâng sự cảm thụ thế giới lên lên tầm
quan niệm về thế giới, ứng với một quan niệm nghệ thuật là một thế giới nghệ
thuật. Với ý nghĩa này quan niệm nghệ thuật là phạm trù về các chỉnh thể nghệ
thuật, là công cụ để tư duy về các hiện tượng nghệ thuật cũng như những chỉnh
thể”. Ý kiến này xem quan niệm nghệ thuật là cái khái quát được chuyển hóa
thành thế giới nghệ thuật
- Quan niệm trong quyển “Một số vấn đề Thi pháp học hiện đại ” của GS. TS. Trần Đình Sử :
“Phạm trù quan niệm nghệ thuật thuộc phạm vi ý thức của văn học, gắn liên với ý
thức về chức năng, nhiệm vụ, khả năng của văn học, nó là cách cắt nghĩa của văn
học đối với con người’.
Như vậy quan niệm nghệ
thuật về con người là nguyên tắc lí giải, cảm thụ của chủ thể.
+ Quan niệm nghệ thuật về
con người là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm nhận của con người đã được trong văn
học, tạo nên giá trị nghệ thuật, giá trị thẩm mĩ.
+Nhân vật là hình thức cơ
bản để miêu tả con người trong văn học. Tuy nhiên, lâu nay người ta chỉ chú
trọng phương diện khách thể của nhân vật mà xem nhẹ các nguyên tắc lí giải, cảm
thụ và biểu hiện chủ quan của chủ thể sáng tạo.
3.2. Cơ sở lịch sử xã hội và văn hóa của quan niệm
nghệ thuật về con người
Quan niệm nghệ thuật về con
người là nguyên tắc cảm thấy, hiểu và miêu tả con người trong văn học. Nhưng các
nguyên tắc ấy có cơ sở sâu xa trong thực tế lịch sử. Do đó, quan niệm nghệ
thuật về con người là một sản phẩm của lịch sử. Chẳng hạn như quan niệm nghệ
thuật về con người trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trước hết gắn liền
với thế giới quan Mac- Lênin , với thực tế đấu trnh cách mạng do giai cấp vô
sản lãnh đạo và nhất là gắn với quan niệm về con người mới và cuộc sống mới .
Quan niệm nghệ thuật về
con người cũng là sản phẩm của văn hóa tư tưởng. Chẳng hạn như quan niệm về con
người vũ trụ trong văn học trung đại Việt Nam gắn liền với cảm thức xã hội của
con người trung đại. Đó là quan niệm Thiên Địa
Nhân hay “ Thiên- Nhân thương cảm”
, con người là tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ, con người có mối liên hệ mật thiết
với thiên nhiên. Chính vì thế con người trong văn học trung đại thường cản nhận
mình trong mối quan hệ với đât trời với những cái lớn lao cao cả.
Quan niệm nghệ thuật về
con người còn mang dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ, gắn liề với cái nhìn của
người nghệ sĩ. Trong văn học ta bắt gặp con người tha hóa trong sáng tác của
Nam Cao, con người vô nghĩa lí trong sáng tác Vũ Trọng Phụng, con người chính
trị trong thơ Tố Hữu,…
Trong các thể loại văn
học khác nhau, chức năng và hệ thống phương tiện biểu hiện khác nhau, quan niệm
nghệ thuật về con người cũng khác nhau. Con người trong thần thoại là con người
siêu phàm như năng lực, một sức mạnh để chế ngự thiên nhiên hay thực hiện một
công việc nào đó,con người trong truyện cổ tích là hiện thân của một quy ước xã
hội,…
3.3. Ý nghĩa của quan niệm nghệ thuật về con người
Quan niệm nghệ thuật về
con người tạo thành cơ sở, thành nhân tố vận động của nghệ thuật, thành bản
chất nội tại của hình tượng nghệ thuật. Quan niệm nghệ thuật về con người không
phải là bất kì ách ắt nghĩa nào về con người mà là cách cắt nghĩa mang tính phổ
quát, mang ý nghĩa triết học. Nghệ sĩ suy nghĩ về con người, cho con người, nêu
ra những tư tưởng mới để hiểu về con người. Do đó càng khám phá quan niệm nghệ
thuật về con người thì càng đi sâu vào thực chất sáng tạo của họ, càng đánh giá
đúng thành tựu của họ.
Con người trong văn học
không chỉ là con người có trong thực tế, mà còn là quan niệm về con người ấy
một cách thẩm mĩ và nghệ thuật. Chẳng những đề tài văn học không ngừng đổi
thay, mà quan niệm nghệ thuật về nó cũng luôn luôn phát triển, làm cho đối
tượng được nhìn từ góc độ mới.
Bỏ qua quan niệm nghệ
thuật về con người sẽ dẫn đến hiểu đơn giản bản chất phản ánh của văn nghệ. Vấn
đề quan niệm nghệ thuật về con người thực chất là vấn đề về tính năng động của
nghệ thuật trong việc phản ánh hiện thực, lí giải con người bằng các phương
tiện nghệ thuật, là vấn đề về giới hạn, phạm vi chiếm lĩnh đời sống của một hệ
thống nghệ thuật, là khả năng thâm nhập của nó vào các miền khác nhau của cuộc
đời.
Chừng nào chưa có đổi mới
trong quan niệm nghệ thuật về con người thì sự tái hiện các đời sống khác nhau
chỉ có ý nghĩa mở rộng về lượng trên cùng một chiều sâu. Thật khó nói tới sự
phát triển của tư duy nghệ thuật mà thiếu sự mở rộng, đào sâu các giới hạn
trong quan niệm nghệ thuật về con người.
4. Những biểu hiện quan niệm nghệ thuật về con người trong
truyện ngắn “ Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư.
Trong “Cánh đồng bất tận”, Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng được một thế
giới nhân vật có tính cách, số phận riêng khá độc đáo. Quả thật, những nhân vật
của Nguyễn Ngọc Tư luôn gây cho chúng ta những day dứt, ám ảnh khi đọc xong tác
phẩm. Phần lớn những nhân vật trong tác phẩm của chị đều thuộc vào những kiếp
người bình thường nhỏ bé, nhưng lạ thay họ đều không hề tầm thường; thậm chí không
ít nhân vật có sự hi sinh đầy cao thượng, có tính cách có thể nói là cao cả.
Ngoài ra, điều chúng ta ít ngờ tới, đó chính là những con người lao động bé nhỏ
kia, lại có thể là kẻ suốt đời ôm mộng, chạy theo một niềm say mê của mình. Do
đó, tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư trong Cánh đồng
bất tận sẽ góp phần giúp chúng ta đánh giá đúng những sáng tạo của chị
trong truyện ngắn.
4.1. Đặt nhân vật trong các tình huống
để các nhân vật tự bộc lộ bản chất, tính cách của mình.
“Tình huống
truyện là toàn thể những sự việc xảy ra tại một nơi, trong một thời gian hoặc
một thời điểm”. Chính tình huống nó tạo thành các tứ riêng, làm nổi bật
điều mà nhà văn muốn gửi gắm cũng như bản chất của nhân vật. Trong Cánh đồng
bất tận Nguyễn Ngọc tư cũng đặt nhân vật vào trong những tình huống đầy
kịch tính. Trước hết đó là tình huống vợ Út Vũ bỏ chồng, bỏ con để đi theo
người đàn ông khác, bi
kịch gia đình tan vỡ bắt đầu từ đây. Hận đời, hận tình người cha phóng lửa đốt
nhà rồi đưa hai con lênh đênh trên chiếc thuyền nhỏ làm nghề chăn vịt, nay đây
mai đó kiếm sống. Nỗi hận của người cha trong Cánh đồng bất tận thật ghê gớm. Khởi đầu chỉ là
sự khó chịu, ghét những gì liên quan đến người vợ. Nhưng dần dần nó phát
triển thành ý muốn “tiêu diệt” những
gì có thể nhắc nhở đến người vợ ấy. Trước hết là sự đánh đập đứa con gái
chỉ vì nó giống mẹ. Sau đó, nỗi hận ấy được nâng lên thành nỗi hận phổ
quát: hận tất cả đàn bà. Nhân vật Út Vũ đốt nhà của mình rồi dẫn hai đứa
con và đàn vịt vào những cánh đồng trong cõi hận. Với nỗi hận ghê
gớm, người cha đã thực hiện việc trả thù… toàn bộ giới phụ nữ. Ông ta
quyến rũ họ, và khi họ vừa bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ chồng, bỏ con để “cuốn gói” theo… tiếng gọi tình yêu thì
ông ta ngay lập tức bỏ rơi họ. Nỗi hận ấy làm cho con người không ngượng
ngùng, hổ thẹn và không chùn tay, không sợ hãi khi làm điều sai xấu. Nhân vật
không có trách nhiệm dạy bảo các con, cũng không che đậy vì hành vi lừa dối, và
sự thù hận là cái cớ làm cho ông không còn biết hổ thẹn. Qua các
tình huống đó,Nguyễn Ngọc Tư cho ta thấy
một hình ảnh người đàn ông ở đây là một kẻ hận thù đến mức mù quáng; trở thành
kẻ tàn nhẫn, bất nhân. Tiếp theo là tình huống Nương cứu được người đàn bà đang
bị người ta đánh ghen đến mức dã man, rồi cả tình huống Nương bị cưỡng hiếp
ngay trước mặt người cha của mình...
Mặc dù Nương
sống trong môi trường vô cùng tăm tối đó nhưng vẫn giữ được tâm hồn đầy tình
yêu thương cũng như niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn. Ngược lại, ông bố
lại lợi dụng tình yêu của kẻ khác để thỏa mãn lòng hận thù mù quáng của mình. Những tình huống này không mới, tuy nhiên
chúng ta có thể nhấn mạnh rằng ở đây là tính cách của các nhân vật đó đều nổi
bật nhờ cách tạo dựng tình huống truyện.
Thật vậy, tình huống truyện không chỉ là yếu tố thúc đẩy cốt truyện phát
triển mà như ta đã thấy nó còn như là “chất
xúc tác”, là thứ nước rửa ảnh để từ đó nhà văn tái hiện rõ nét hơn tính
cách, bản chất của từng nhân vật. Qua đó phần nào khái quát được bức tranh tính
cách của con người trong hiện thực đời sống.
4.2. Quan niệm nghệ thuật về con người
qua cách miêu tả ngoại hình nhân vật.
“Ngoại hình là một khái niệm nhằm chỉ
toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bề ngoài của nhân vật”. Đó
chính là những nét về diện mạo, hình dáng, trang phục, cử chỉ, tác phong của nhân
vật được biểu hiện trong tác phẩm. Chỉ bằng vài nét bút thoáng qua có tính chất
chấm phá nhưng Nguyễn Ngọc Tư đã tái hiện, dựng lên chân dung các nhân vật một
cách rất rõ nét trước mắt người đọc. Để từ chân dung đó, người đọc có thể nhìn
thấu một cách sinh động, trọn vẹn tính cách nhân vật.
Dân gian
thường nói “nhìn mặt mà bắt hình dong”.
Có lẽ rất do rất tâm đắc với với lời nói đó nên Nguyễn Ngọc Tư đã rất hứng thú
trong việc phác hoạ lại hình ảnh các khuôn mặt. Thật vậy, khuôn mặt là điểm
nhận biết đầu tiên khi người ta tiếp xúc với nhau, là nơi bộc lộ mọi trạng thái
cảm xúc vì vậy nó là một phần để người ta nắm bắt tâm lý của nhau. Nắm bắt được
điều đó Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện sự thành công đặc biệt của mình khi phác hoạ
hình ảnh dễ gợi này.
Viết về những
người đàn bà buôn hương bán phấn, Nguyễn Ngọc Tư đã không cần tốn quá nhiều
công sức khi khái quát về tính cách, nghề nghiệp của họ. Viết về họ, Nguyễn
Ngọc Tư đã chớp ngay được “cái con mắt
đung đưa’’, “nụ cười tung tẩy trên khóe mắt”. Cái con mắt “đung đưa” “tung tẩy” gợi tình, mời tình ấy cũng đủ giúp ta hình dung được sự
phong trần, lả lơi của một kiếp đàn bà. Tiếp đến cụ thể hơn là hình ảnh “mắt và cổ đã nhão”, “Chúng tôi đã gặp nhiều, rất nhiều người phụ nữ giống chị. Cứ
mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của những thợ gặt, những
người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ trẻ trung, tươi tắn
nhưng mặt và cổ đã nhão ra, nhìn kỹ phát ứa nước mắt”. Đặc biệt,
Nguyễn Ngọc Tư còn vạch cho ta thấy nhưng vết thương toang hoác của cuộc đời mà
đã chấp nhận để được ăn trên miếng cơm, manh áo của người khác. Hình ảnh của
nhân vật Sương sau trận đánh ghen “môi
chị sưng vểu ra xanh dờn; những mảnh thịt mà người ta cấu nhéo tím ngắt’’,
“đôi vú rách bươm và khoảng đùi rớm máu”
đau đớn ê chề nhục nhã nhưng người đàn bà đó vẫn chấp nhận, như một lẽ tất
nhiên khi đã chấp nhận dấn thân vào cái nghề tàn khốc đó. Trước sự đau đớn mà
chị phải chịu, trước việc biết được người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình chị
thì một lần nữa để thấy được thái độ của mọi người. Bằng việc đặc tả đôi mắt
của người cha: “tôi đọc được sự ghê sợ,
kinh tởm cồn lên trong mắt cha”. Nhưng cũng với đôi mắt ấy, ở một hoàn cảnh
khác sắc thái cảm xúc mà nó biểu hiện lại khác.
Sau khi quyến
rũ được người cha chung chạ qua đêm với chị cha tôi chỉ lạt lẽo nhếch
cười...Cha đưa cho chị một ít tiền ngay trong bữa ăn cơm khi nhà đủ mặt, “tôi trả tiền hồi hôm...” rồi điềm
nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt”.
Rõ ràng với cách thể hiện như vậy, người đọc chỉ có thể nhận xét rằng đó đích
thị là đôi mắt của kẻ tàn nhẫn, bạc bẽo đến vô lương tâm.
Những
tưởng người cha trong truyện sẽ càng ngày càng man rợ nhưng không ngờ với đôi
mắt “ầng ậc nước... nhoè nhoẹt” khi
chứng kiến con gái mình bị hãm hiếp mà ông không làm gì được đã trở thành dấu
hiệu sự trở về của con người thật trong ông. Hình ảnh đôi mắt còn xuất hiện rất
nhiều trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư. Đó còn là đôi mắt bị bệnh chảy nước mắt
sống của Điền. Đôi mắt cứ chảy nước mắt ròng ròng, đôi mắt bị tổn thương sau
khi nhìn thấy những hình ảnh không đáng nhìn khi vừa thức giấc trong bồ lúa.
Sau khi Điền bỏ đi theo “chị”, Nương
vẫn nghĩ về đôi mắt ấy với một niềm khắc khoải khôn nguôi: “không biết nước mắt của nó đã khô chưa hay
vẫn rỉ từng giọt như máu tươi”. Hình ảnh đôi mắt cứ chảy nước ròng ròng ảm
ảnh từ đầu đến cuối câu chuyện đã thể hiện ý nghĩa nhân văn sâu sắc, Nguyễn
Ngọc Tư đã cho ta thấy một tâm hồn bị tổn thương, yếu đuối. Con người ta có thể
chai sạn với mưa nắng nhưng với những cú sốc tinh thần đặc biệt là cú sốc đầu
đời thì rất khó để chữa lành. Cú sốc đó mãi còn để lại những di chứng về sau
này.
Ngoài
những nét chấm phá rất điển hình để miêu tả một khoảnh khắc trong cuộc đời nhân
vật, Nguyễn Ngọc Tư còn miêu tả ngoại hình gắn với sự biến đổi theo năm tháng.
Nhìn vào các nhân vật trong “Cánh đồng
bất tận”, ta dễ dàng thấy đặc trưng riêng của từng nhân vật. Tuy nhiên toát
nên từ tất cả, ai cũng mang trên mình đặc điểm chung, cái nét chung của người
nông dân Nam Bộ cơ cực nghèo khổ. Những nét tính cách này càng được nổi bật rõ
ràng hơn khi ta đặt những nét ngoại hình đó trong sự đối sánh với nhân vật ông
trưởng ấp và ông cán bộ xã: “hai khuôn
mặt bị nướng dưới ánh mặt trời, bóng nhẫy, tươm mỡ”, còn ánh mắt thì đó là:
“ánh nhìn ham muốn như mũi kim thò ra
khỏi bọc, lơ láo”. Chỉ cần hai nét cơ bản như vậy thôi người đọc dã có thể
hình dung ra sự ứ thừa của những con người tham lam, ham hố.
Như
vậy khi miêu tả ngoại hình, Nguyễn Ngọc Tư đã không sao chụp máy móc chân dung
các nhân vật mà chỉ phác họa tái hiện lại bằng một vài nét thoáng qua có tính
chất chấm phá. Song những nét chấm phá ấy lại có ý nghĩa lớn, nó đạt tới giá
trị tạo hình, lại vừa có khả năng gắn rất cụ thể nhằm tái hiện một cách sinh
động tính cách nhân vật cũng như đã góp phần nêu bật được quan niệm của nhà văn
về con người thế giới.
4.3. Quan
niệm nghệ thuật về con người qua cách xây dựng lời đối thoại của nhân vật
Nhân
vật trong “Cánh đồng bất tận” đều là
những người nông dân Nam Bộ nên trước hết ta thấy họ đều là những con người
bình dị.. Cách diễn đạt của họ cũng rặt một kiểu Nam Bộ: “bảnh thiệt, cà lơ
phất phơ”, “ dóc”... Họ là những con người chất phác, thường thì nghĩ sao nói
vậy. Vậy nên khi tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người ta không thể bỏ qua
những lời đối thoại của nhân vật. Qua lời đối thoại, ngoài thông tin thể hiện
trong lời nhân vật đó ta còn dễ dàng hiểu được cách suy nghĩ và qua đó mà hiểu
được tính cách nhân vật.
Nếu
không phải là con người từng trải, sâu sắc, chu đáo và rất tình cảm thì sẽ
không bao giờ thốt ra những câu nói đầy triết lí nhưng rất chân tình và thấm
đẫm tình yêu thương như thế. Trong Cánh đồng bất tận để thể
hiện tính cách tàn nhẫn của người cha và sự cam phận nhẫn nhục của nhân vật “chị”, Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng những
đoạn đối thoại rất đặc sắc. Sau khi diễn tả sự hạnh phúc của chị khi quyến rũ
được nhân vật cha qua đêm với mình trong bữa ăn, cha nói: “Tôi trả tiền hồi hôm…”.Chị nhét tiền vào trong áo ngực, cười “Trời ơi ba mấy cưng sộp quá chừng”
Rồi một
lần sau khi chị cố gắng để đàn vịt của ba cha con khỏi bị tiêu hủy, sáng sau
gặp ở quầy vịt : “Sao, hồi tối có vui
không?
Chắc họ tưởng cô là vợ tôi nên hứng thú lắm hả? Cứ để họ nghĩ vậy...”.
Chị ngó trân trân vào cha, rồi day qua tôi, chị để rớt từng lời:
- Má cưng ác một, nhưng người cha này của cưng ác tới mười”
Qua
đó ta thấy lời đối thoại cũng là một phương tiện nghệ thuật rất đắc dụng để nhà
văn xây dựng lên tính cách nhân vật. Qua những lời thoại trong tập truyện,
Nguyễn Ngọc Tư đã cho ta thấy được rõ nét hơn về lối sống, tính cách của các
nhân vật trong truyện.
4.4. Quan niệm nghệ thuật về con
người qua cách thể hiện nội tâm nhân vật.
“Nội tâm là khái niệm chỉ toàn bộ những trạng
thái, suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác, nhưng phản ứng tâm lý của bản thân nhân vật
trước cảnh ngộ và tình huống mà nhân vật chứng kiến trên bước đương đời của
mình”. Yếu tố tâm lý thường được nhà văn xem là một đối tượng nghiên cứu
trực tiếp của mình. Muốn khai sinh cho một nhân vật phải nắm bắt được tâm lý
của nhân vật. Đây cũng chính là một thử thách đối với nhà văn bởi tâm lý của
con người không đơn giản, khó nắm bắt. Mỗi người có một tính cách riêng, cách
suy nghĩ riêng với những cảm nhận khác nhau về thế giới và con người. Nguyễn
Ngọc Tư là nhà văn có khả năng nhập thẳng vào nhân vật của mình. Qua nhân vật
xưng “tôi” trong tác phẩm độc giả
chẳng những lĩnh hội được câu chuyện mà còn thấu hiểu cả những trải nghiệm, suy
tư, những cơn sóng tâm hồn của nhân vật kể chuyện. Có thể xem đó là những đoạn
độc thoại nội tâm của nhân vật. Hình thức này cũng khiến cho dòng tâm tư nhân
vật hiện lên “tươi rói” trên trang
sách. Trong truyện số lần nhân vật
Nương, xưng “tôi” dừng lại tái hiện
những tâm tư của mình lên tới 15 lần, mỗi lần một suy nghĩ, một trạng thái cảm
xúc khác nhau. Trong dòng suy nghĩ triền miên của nhân vật “tôi” thì nỗi nhớ
chính là những lớp sóng tâm trạng miên man, cồn cào và giằng xé trong tâm hồn “tôi”. Mỗi lần nhớ, mỗi lần thương, mỗi
lần đau “tôi”thường bộc bạch, mổ xẻ
suy nghĩ của chính mình. Bắt đầu từ nỗi nhớ má “suốt nhiều năm sau đó, tôi không dám nhớ má, bởi ngay khi vừa nghĩ đến
má thì lập tức hình ảnh ấy lại hiện ra”. Không hề tức giận khi bị cha đánh
đòn, “tôi” chỉ ngồi đó tìm ra nguyên
nhân xuất phát những trận đòn đó: “Và tôi
tự nhớ lại coi hồi sáng này, hồi trưa này mình đã làm gì giống má, kho cá bỏ
quá nhiều tiêu? Hay vì tôi buộc tóc nhong nhỏng”; “Tôi cảm thấy mình thất vọng đến rã rời. Những thói quen, những cái gì
liên quan đến má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng làm sao tôi có thể bỏ được hình
hài nầy”.
Rồi
khi đứa em trai từ chối sự trưởng thành, ghê tởm những hoạt động sinh lí xác
thịt Nương muốn giúp em mà không làm gì được bởi “Tôi muốn kêu lên, tiếc là sự thất học khiến tôi không thể diễn đạt bằng
lời. Tôi không chắc chắn lắm nhưng tình dục và xác thịt không xấu xa, không
đáng bị khinh bỉ, không phải là nguyên nhân đến cuộc sống nầy với những đổ vỡ
nầy…”.
Sau
này khi Điền đã bỏ đi theo chị mỗi khi qua những xóm kinh, Nương “thường ngóng lên bờ xem có được gặp chị với
Điền không”. Những lúc đó Nương nghĩ: “không
biết em tôi có đuổi kịp chị hay vẫn tiếp tục kiếm tìm. Không biết nó đã đánh
thức được bản năng, đã tìm thấy nhục cảm, đã thèm muốn chưa. Không biết nước
mắt của nó đã khô chưa hay vẫn rỉ từng giọt máu tươi”.
Đến
đoạn người cha nhắc tới chuyện lấy chồng thì trong đầu Nương xuất hiện hàng
chục câu hỏi tự vấn. Những suy nghĩ của Nương bật ra như lời đối thoại với
chính độc giả, với trời, với đất và với chính bản thân mình: “Tôi biết lấy ai trong số đó? Lấy một người
cắm mặt xuống đất, mệt nhừ với vườn ruộng để mỗi khi giáp hạt tôi nghe thấy
tiếng cạo cơm cháy của con, tiếng muỗng dừa vét gạo dưới đáy mà rát bỏng trong
lòng? Hay tôi sẽ chọn một người chăn vịt, mê mỏi với chuyến đi xa, sống hờ hững
tạm bợ, thấp thỏm với rủi ro và đến một lúc nào, tôi ôm con nghe đêm của mùa
gặt thật dài với tiếng rúc rích của người chồng già nua. Tôi lấy ai bây giờ,
một người thợ gặt? Một anh chạy đò?” .Đến tận khi truyện đi đến đoạn kết
thì Nương vẫn không ngừng bộc lộ những dòng suy nghĩ chảy tràn của mình: “Trời ơi, tại sao tôi không nhận ra điều đó
ngay lúc ấy…”. Trong hoàn cảnh hết sức thương tâm đó Nương nghĩ: “Ước gì cha tôi hiểu để mà thanh thản”.
Người đọc không thể ngờ được 17 tuổi mà Nương lại có những dòng suy nghĩ, những
câu tự vấn sâu sắc đến thế về cuộc đời. Quá khứ, hiện tại, tương lai nó cứ đồng
hiện, chất chứa thành một khối trĩu nặng với đầy đủ những sự day dứt cho quá
khứ, dằn vặt về hiện tại, lo lắng cho tương lai. Sự trưởng thành, già dặn quá
sớm của nhân vật chỉ có thể giải thích được bằng chính cuộc sống không người
dạy dỗ, sống cuộc sống xa cách con nguời, không được sự quan tâm của cha cũng
chẳng được sự chăm sóc của mẹ. Bao nhiêu sự trăn trở, lo âu về cuộc sống không
biết giải bày cùng ai cho nên nhân vật luôn sống với những dòng suy nghĩ triền
miên là điều tất yếu.
Khi gặp người
đàn bà ở xóm Bàu Sen, lúc đầu cha “trút
vẻ lầm lũi” vốn có. Sau đó khi đã rủ chị bỏ nhà, bỏ quê để theo cha thì vừa
mới đi được một đoạn đường cha quăng chị lại “cười dữ dội,đau đớn, hoang dã, cay đắng, nghiệt ngã. Cái cười thật dài,
riết lấy khuôn mặt cha, làm mắt cha hơi lồi ra, ánh lên như có nước”. Càng
ngày cha càng “xanh xao, lạt lẽo, ngơ
ngác và cô đơn”... Qua lời kể của đứa con gái, tâm lí người cha càng ngày
càng ghê sợ “không còn một chút cảm xúc nào, nét mật tràn ngập những rắp tâm,
chưa gặp mặt đã tính chuyện phũ phàng”. Nhưng sau tất cả những điều đó đứa con
gái vẫn hiểu rằng bên trong tâm hồn cha là “một hố sâu thăm thẳm, bến bờ mịt
mù, chơi vơi, dễ hụt chân”. Trong tác phẩm, ta còn thấy bi kịch của hai chị em Điền và Nương không
đơn giản chỉ là vấn đề “miếng cơm manh áo”
mà chính là sự đói khát về tình cảm của cha mẹ, của con người với con người
trong cuộc sống. Trong tiềm thức của hai chị em Nương luôn là hình ảnh người mẹ
trẻ đẹp một thời nhưng tất cả đều là mầm mống và dấu hiệu báo trước một sự chia
lìa, xa cách do sự thiếu chung thủy của người mẹ ấy. “Má ngó chúng
tôi, hỏi: “Gì mà nhìn trân trân vậy hai đứa?”. Tôi nói,“Má lạ quá hà, nhìn
không ra”. Má mừng quýnh, “Thiệt hả?”. Tôi muốn khóc quá chừng, má con xa lạ
với nhau sao lại mừng?”. Và đúng như thế, mẹ của chúng cuối cùng
do không chống lại nổi sự cám dỗ của người đàn ông có chiếc ghe bán đủ thứ đồ
thực phẩm đã nhẫn tâm bỏ đi. Còn lại người cha, cứ ngỡ ông sẽ dành tất cả tình
cảm của mình cho hai đứa con yêu thương để bù đắp sự trống vắng của người mẹ
thì trái lại ông cư xử với chúng như những người dưng xa lạ. Vì thế, tuy sống
với cha nhưng hai chị em Nương và Điền hầu như chỉ biết “giao tiếp” với… đàn vịt mà chúng chăn thả trên những Cánh đồng
bất tận. Chúng thèm quay quắt một ánh nhìn trìu mến của cha mà lẽ ra đương
nhiên chúng được quyền hưởng. Chúng thèm được nghe ông sai đi mua rượu, sai
nướng vài con khô để ông vui thú với bạn bè. Thậm chí chúng còn thèm được nghe
ông la hét, đánh mắng dù họ chẳng lầm lỗi gì. Nói tóm lại, họ khao khát được
giao cảm, được trò chuyện giống như bầy vịt chăn thả trên đồng cần có lúa để ăn
mà đẻ trứng. Họ thèm được “đối thoại”
với cha mình dù đó là những lời nạt nộ, xa lạ như với người dưng nước lả. Những
đoạn văn sau cho chúng ta thấy bi kịch trên của chị em Nương và Điền:
- “Trời ơi, trừ
chị em tôi ra không ai thấy được đằng sau khuôn mặt chữ điền ngời ngợi đó là
một hố sâu đen thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi, dễ hụt chân”.
- “Có lần, khi
đi trên sông, thằng Điền giả đò té chìm nghỉm mất tăm, tôi giả đò kêu la chói
lói, cha hơi giật mình hoảng hốt, dợm lao xuống nước, nhưng rồi cha điềm nhiên
ngồi lại, tiếp tục gọt đẽo, chắc là nhớ thằng Điền đã lặn lội nước sông từ năm
bốn tuổi, sức mấy mà chết trôi.”
- “Có lần, đi
qua xóm, trong một buổi chiều, chúng tôi gặp những ông già ngồi chơi với cháu,
thằng Điền đứng tần ngần bên hàng rào dâm bụt, bảo, “ phải chi ông nầy là ông
nội mình hé Hai?” Nghe câu đó tôi bỗng thấy mình nghèo rơi nghèo rớt đến nỗi
không có… ông nội để thương, thèm muốn bên đường.”
Trong tác phẩm
còn một chi tiết làm cho người đọc không khỏi xúc động, đó là chi tiết cô bé
Nương hay tìm đến con vịt mù trong đàn để trút hết những nỗi niềm tâm sự, mong
tìm được sự cảm thông chia sẻ. Đây là một chi tiết đắt giá làm người đọc
phải giật mình về mối quan hệ lỏng lẻo, xa lạ giữa người với người trong cuộc
sống. Chúng ta thử nghĩ xem vì sao trong cuộc sống hiện đại con người ta
lại cô đơn, bơ vơ và lạc lỏng đến như vậy? Đến đây có thể nói cái nghèo cái đói
về vật chất, về miếng cơm manh áo đối với người nông dân bây giờ là chuyện rất…
bình thường. Chỉ có cái nghèo, cái đói về mặt tình cảm, nỗi thiếu thốn về
chữ tình, chữ nghĩa, sự giả dối trong đối xử giữa người với người mới là điều
quá sức tưởng tượng của họ.
Qua đây ta thấy Nguyễn Ngọc
Tư đã khéo léo linh hoạt tìm ra những phương thức sát hợp nhất thể hiện sắc nét
nhất dòng tâm trạng, cảm xúc, những suy tư, trăn trở... trong nội tâm của từng
nhân vật. Nội tâm vốn là là yếu tố không dễ nắm bắt nhưng với tài năng, sự nhạy
cảm và tấm lòng gắn bó sự chân thành của chính bản thân mình với tất cả mọi
người, Nguyễn Ngọc Tư đã dễ dàng đột nhập, khám phá nội tâm từng nhân vật để
người đọc hiểu, thông cảm và trân trọng những tất thảy con người đó. Qua việc
đi sâu khám phá nội tâm của các nhân vật Nguyễn Ngọc Tư như thêm một lần nhắc
nhở người đọc, giúp người đọc có thêm được một kinh nghiệm sống, mỗi người
chúng ta nên có được một cái nhìn quân bình hơn trong cuộc sống này.
KẾT LUẬN CHUNG
Như vậy từ việc đặt nhân vật vào trong các tình huống có vấn đề, từ việc
miêu tả ngoại hình, dựng lên những đoạn đối thoại và đặc biệt là việc khám phá
đời sống nội tâm của nhân vật... Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng lại những hình
tượng nhân vật của mình trong tính toàn vẹn nhất trước mắt người đọc. Thật vậy,
từ thế giới nhân vật của mình, Nguyễn Ngọc Tư đã dễ dàng chuyển tải được toàn
bộ những ý đồ nghệ thuật sâu xa của mình. Rõ ràng, những đoạn đã dẫn cho thấy
nhà văn đã trần thuật lại câu chuyện bằng giọng điệu, nội tâm của nhân vật.
Hình thức này khiến cho nhà văn có thể tái hiện tự nhiên dòng tâm tư của nhân
vật mà còn khiến tác phẩm biến hóa, nhiều giọng điệu. Có thể nói, kế thừa truyền thống về
quan niệm nghệ thuật về con người của các thế hệ đi trước, bằng sự trải nghiệm
và sự sáng tạo của bản thân, Nguyễn Ngọc Tư đã đưa ra một “cái nhìn”, một cách “lí giải”
về con người rất mới mẻ và độc đáo, đem đến cho người đọc một sự thích thú và
ngày một yêu mến truyện ngắn của chị hơn. Đây chính là dấu ấn riêng trong “Cánh đồng bất tận”, góp phần làm nên
phong cách truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
MỤC
LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ ………………………………………………………………
1.Đôi nét về tác giả Nguyễn Ngọc Tư………………………………………..
2. Tóm tắt truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”………………………………...
3. Khái niệm quan niệm nghệ thuật về
con người ……………………………
3.1. Quan niệm nghệ thuật về con
người là nguyên tắc lí giải, cảm
thụ của chủ thể………………………………………………………………...
3.2. Cơ sở lịch sử xã hội và văn hóa
của quan niệm nghệ thuật về
con người ……………………………………………......................................
3.3 Ý nghĩa của quan niệm nghệ thuật
về con người ………………………...
4. Những biểu hiện quan niệm nghệ
thuật về con người trong truyện
ngắn “ Cánh
đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư………………………
4.1. Đặt nhân
vật trong các tình huống để các nhân vật tự bộc lộ bản chất, tính cách của
mình……………………………………………………
4.2. Quan niệm
nghệ thuật về con người qua cách miêu tả ngoại hình
nhân
vật………………………………………………………………..
4.3.Quan niệm nghệ thuật về con người
qua cách xây dựng lời đối
thoại nhân
vật.........................................................................................
4.4.
Quan niệm nghệ thuật về con người qua cách thể hiện nội tâm
nhân
vật......................................................................................................
KẾT LUẬN CHUNG…………………………………………………..
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn Thị Dư Khánh,Thi pháp học và mấy vấn đề giảng dạy văn học trong nhà trường, Nxb
Giáo dục,2009.
2.
Lê
Bá Hán- Trần Đình Sử- Nguyễn Khắc Phi, Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục
Việt Nam, 2010.
3.
Đỗ Đức Hiểu- Nguyễn Huệ Chi- Trần Hữu Tá, Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới,
2004.
4.
Nguyễn
Thái Hòa, Những vấn đề thi pháp của
truyện, Nxb Giáo dục,2000.
5.
Trần
Đình Sử, Giáo trình thi pháp học, Nxb
Tp Hồ Chí Minh, 1993.
6.
Trần
Đình Sử, Một số vấn đề thi pháp học hiện
đại, Bộ giáo dục và đào tạo- vụ giáo viên, Hà Nội, 1993.
7.
Trần
Đình Sử, Lý luận và phê bình văn học,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội,1996.
8.
Nguyễn
Ngọc Tư, Cánh đồng bất tận- những truyện
hay và mới nhất, Nxb Trẻ, 2006.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét