Cảm thức về thời gian và không gian
trong bài thơ “Hoàn Kiếm hồ”
(hồ Hoàn Kiếm) của Nguyễn Khuyến.
Bài viết:
“Thời gian và không gian là hình thức tồn tại
của thế giới, của cuộc sống con người”( GS. TS Trần Đình Sử). Không gì có
thể tồn tại ngoài không gian và thời gian. Do vậy, mọi cảm nhận về tồn tại của
con người đều gắn liền với cảm nhận không gian và thời gian. Con người cảm nhận
về thời gian từ sự thay đổi của chính mình và thế giới chung quanh. Và cũng có
thể nói cảm thức thời gian, không gian là một trong những vấn đề quan trọng được
thể hiện trong văn học nhân loại . Và trong văn học trung đại Việt Nam cũng không
ngoại lệ. Cảm thức về thời gian, không gian được thể hiện nhiều trong các tác
phẩm. Bài thơ “Hoàn Kiếm hồ” của Nguyễn
Khuyến là một trong những tác phẩm tiêu biểu nằm trong cảm thức ấy.
Nguyên
tác:
Bất
đáo Kiếm hồ tam thập niên,
Đương
thời cảnh sắc dĩ mang nhiên.
Hành
mao hà xứ khởi lâu các,
Già
pháo dạ thanh vô quản huyền.
Huyền
điểu quy lai mê cựu kính,
Bạch
âu mộ hạ túc hàn yên.
Khả
liên ngũ bách văn chương địa,
Thượng
hữu cô sơn thạch nhất quyền.
Dịch
thơ:
Ba chục năm trời cảnh vắng ta,
Hồ Gươm dấu cũ đã phai nhòa.
Thanh tre khắp chốn thành lầu gác,
Kèn súng thâu đêm, bặt trúc tơ.
Chiếc én tìm về quên lối cũ,
Đàn cò tối đậu lẫn sương mờ.
Năm trăm năm cũ nơi văn vật,
Còn sót hòn non một nắm trơ.
Lê
Tư Thục- Nguễn Văn Tú dịch
Kể
từ sau ba mươi năm đỗ thủ khoa (1864), Nguyễn Khuyến không có dịp đi qua hồ Hoàn
Kiếm. Nay đến khung cảnh đổi khác, một nỗi niềm cảm xúc trào dâng khi đứng trước
cảnh cũ đã thay đổi.
“Bất đáo Kiếm hồ tam thập niên,
Đương thời cảnh sắc dĩ mang nhiên”.
(Ba chục năm trời cảnh vắng ta,
Hồ Gươm dấu cũ đã phai nhòa).
Bài
thơ được mở đầu theo mô tip là cảm hứng tang thương, mọi vật biến đổi theo thời
gian. Đã qua ba mươi năm, tác giả đã không đến hồ Hoàn Kiếm “Bất đáo kiếm hồ tam thập niên”. Có lẽ cảnh
hồ Hoàn Kiếm ba mươi năm trước đây đẹp, thơ mộng nhưng ba mươi năm sau những dấu
vết cũ không còn nữa. Điều này cũng dễ hiểu, bởi thời gian sẽ làm phai mờ đi tất
cả. Cái cảm thức về thời gian, không gian ở đây là thời gian, không gian biến đổi,
tàn tạ. Và có thể khẳng định rằng đây là “ thời
gian lịch sử tương quan với thời gian vũ trụ”. “Trong thơ các dấu tích lịch sử được cảm nhận như cùng tồn tại trong hiện
tại không gian. Thời gian trôi qua vô tình. Cái gì rồi cũng trôi qua trong lịch
sử, sự nghiệp anh hùng, các triều đại, các đền đài tiêu tan chỉ để lại dấu
tích”. Tất cả đều biến đổi huống chi là ở khung cảnh hồ Gươm nhỏ bé này. Và
đặc biệt cái mô tip tang thương nnày ta còn gặp nhiều ở một số tác phẩm .
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư”.
(Độc Tiểu Thanh kí- Nguyễn Du)
Ở
đây Nguyễn Du cũng nói về sự thay đổi của cảnh vật nơi Tây Hồ: quá khứ xinh đẹp,
hiện tại trở thành bãi hoang.
Hay
nói về sự biến đổi của thành Thăng Long
“Thành mới trăng xưa bóng lững lờ,
Thăng Long đô cũ dấu còn trơ”.
(Thăng Long- Nguyễn Du)
Và
cũng không phải ngẫu nhiên mà mở đầu Truyện Kiều , Nguyễn Du cũng phải thốt lên
“Trải qua những cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn
lòng”.
Cũng
trên sự thay đổi ấy, Bà Huyện Thanh Quan cũng đau đáu một nỗi niềm trước thành
Thăng Long hiện tại.
“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”.
(Thăng Long hoài cổ)
Trở
lại bài thơ “Hoàn Kiếm hồ”của Nguyễn
Khuyến. Như ở trên đã nói, sau ba mươi năm tác giả mới trở lại hồ Hoàn Kiếm. Ba
mươi năm này (1864- 1894) đây là giai đoạn “dầu
sôi lửa bỏng” của đất nước. Thời gian này thực dân Pháp đã mở rộng địa bàn
xâm lăng ra miền Bắc và đã chiếm toàn bộ đất nước ta. Suy cho cùng nhà thơ cảm
thương cho cảnh cũ hồ Hoàn Kiếm cũng là cảm thương cho đất nước lúc bấy giờ bị
họa xâm lăng. Đó là một tấm lòng yêu nước kín đáo của nhà thơ. Và ở đây, đúng
như nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét “nhà
thơ đi tới cùng lịch sử, nhưng con mắt tâm hồn luôn hướng về một viễn cảnh phía
sau”.
Theo
dòng chảy của thời gian, cảnh vật nơi đây biến đổi cụ thể.
“Hành mao hà xứ khởi lâu các,
Già pháo dạ thnah vô quản huyền”.
(Tranh tre khắp chốn thành lầu gác
Kèn súng thâu đêm bặt tiếng tơ).
Những
nơi nhà tranh nay đã biến thành lâu đài. Ban đêm chỉ nghe tiếng súng, tiếng
kèn, không thấy tiếng sáo. Rõ ràng khi thực dân Pháp vào chiếm nước ta, chúng
đã tiến hành cho xây dựng đô thị với những ngôi nhà cao tầng . Vì thế mà những
ngôi nhà tranh nơi đây biến thành lâu đài là một điều tất yếu. Nhưng có lẽ bọn
chúng cho xây dựng chỉ phục vụ cho mục đích xâm lược của chúng. Còn Ban đêm chỉ
có tiếng súng của chúng. Tiếng kèn – nhạc cụ của phương Tây đã thay thế tiếng
đàn sáo cổ truyền của dân tộc. Như vậy theo cảm thức của tác giả, thực dân Pháp
vào xâm lược nước ta đã làm biến đổi tất cả, phá hủy những giá trị cổ truyền của
dân tộc. Ta cũng thấy được một tâm trạng đau đớn của Nguyễn Khuyến trước cảnh
nước mất nhà tan.
Cảnh
vật biến đổi tội cho những sinh vật nhỏ bé đáng thương
“Huyền điểu quy lai mê cựu kính,
Bạch âu mộ hạ túc hàn yên”.
(Chiếc én tìm về quên lối cũ,
Đàn cò tối đậu lẫn sương mờ).
Một
cái nhìn tinh tế của tác giả, những cánh én, đàn cò hay là một hoàn cảnh tội
nghiệp đáng thương của nhân dân ta lúc bấy giờ?
Đến
hai câu kết, ta càng thấy rõ một không gian hoang dại, tiêu điều, biến dịch.
“Khả liên ngũ bách văn chương địa,
Thượng hữu cô sơn thạch nhất quyền”
(Năm trăm năm cũ nơi văn vật,
Còn xót hòn non một nắm trơ).
Với
sự sa sút của xã hội phong kiến và sự xâm lược của Pháp lúc bấy giờ, dường như
cảm xúc không gian của những nhà thơ lúc bấy giờ cũng đổi thay. Trong thơ, nhiều
tác giả xuất hiện không gian tang thương, biến dịch như trong thơ Nguyễn Đình
Chiểu, Tú xương,… Và trong thơ Nguyễn Khuyến cũng vậy. Thực ra thành Thăng long
đã trở thành kinh đô từ thế kỉ XI. Ở đây tác giả chỉ muốn nói đến việc hồ được
đặt tên hồ Hoàn Kiếm từ thế kỉ XV khi có chuyện Lê Lợi trả gươm cho thần Rùa.
Con số năm trăm năm ở đây cũng là một con số ước lệ mà thôi. Ở hai câu kết bên
cạnh sự biến đổi hoang tàn của cảnh vật nơi đây cũng giống như sự biến đổi của
thành Thăng Long trong sự cảm nhận của Bà Huyện Thanh Quan trước đó.
“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn chau mặt với tang thương”.
(Thăng Long hoài cổ- Bà Huyện Thanh Quan)
Cái
không gian ở đây theo cái nhìn của Nguyễn Khuyến chỉ là một hòn núi đá trơ trọi
như vậy so với ở câu thứ ba có gì mâu thuẫn chăng? Có lẽ cái không gian ở câu
thơ “Hành mao hà xứ khởi lâu các”là không
gian của những giá trị vật chất bên ngoài biến đổi. Còn ở trong hai câu kết là
những giá trị tinh thần bị biến đổi, nhà thơ cảm thương cho những giá trị văn
hóa tinh thần đã bị mai một và thậm chí không còn nữa.
Tóm
lại trong thơ ca cổ điển Việt Nam mà cụ thể trong bài thơ “Hoàn Kiếm hồ” của Nguyễn Khuyến ta thấy rõ được cảm thức của tác giả
về thời gian và không gian. Đó là thời
gian, không gian biến dịch, tiêu điều. Sự biến đổi này gắn với sự thay đổi xã hội,
sự tự ý thức của con người và tư duy nghệ thuật trong văn học. Đồng thời qua
bài thơ ta thấy được tấm lòng yêu nước sâu kín của tác giả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại
Văn Hùng giới thiệu và tuyển chọn, Nguyễn
Khuyến tác phẩm chọn lọc, Nxb giáo dục Việt Nam,2009.
2. Trần Đình Sử,
Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2005.
3. Lê Trí Viễn,
Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb khoa học xã hội Hà Nội,1996.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét