Thứ Tư, 6 tháng 3, 2013

Bài thơ "Thu điếu"


THU ĐIẾU
Làng cảnh Việt Nam lúc đất trời vào thu đẹp một vẻ đẹp thanh sơ, bình dị mà thật nên thơ, nhưng không  mấy ai đưa được vẻ đẹp ấy vào thơ một cách thân tình như Nguyễn Khuyến. Cũng chẳng mấy ai nói được tình cảm bình dị mà lắng sâu của con người Việt Nam với làng xóm quê hương như ông. Nhắc đến Nguyễn Khuyến, người yêu thơ không quên được chùm thơ của ông viết về mùa thu như một chùm hoa đẹp có hương sắc lâu bền, trong đó bài Câu cá mùa thu được coi là một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Khuyến. Bài thơ có sự hòa hợp giữa cảnh thiên nhiên thanh sơ của nông thôn êm đềm, vắng lặng vào tiết thu  với tâm trạng thời thế kín đáo của thi sĩ
Nhan đề bài thơ là Câu cá mùa thu nhưng mục đích  không ở việc kiếm cá ăn; câu cá chỉ là cái cớ để tiêu sầu và cảm nhận hương sắc mùa thu. Còn gì thú vị hơn được ngồi câu cá giữa một  vùng phong cảnh quen thuộc của quê hương mình, để hồn thu thấm vào hồn người. Lúc Nguyên Khuyến viết bài thơ này, gót giày quân xâm lược Pháp đã đặt lên nhiều nơi trên đất nước, xã hội thuộc địa đã được lập nên ở vài đô thị. Nhưng làng quê Việt Nam, làng quê nghìn đời của Nguyễn Khuyến vẫn giữ được vẻ đẹp thanh sạch, giản dị, duyên dáng như cô gái chân quê xứ Bắc với “ cái áo tứ thân, cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen”. Nguyễn Khuyến đi câu cá là để tắm mình trong không khí nguyên sơ ấy của mùa thu quê hương cho khuây khỏa nỗi thương đau trong lòng.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Bài thơ mở ra thời gian và không gian nghệ thuật đầy thi vị, đầy ắp không khí làng cảnh vùng đồng bằng Bắc Bộ. Vì đi câu cá nên điểm xuất phát của cảm hứng là chiếc “ao thu”. Ao là một hình ảnh thân quen, thân mật, bình dị ở làng quê xứ Bắc. Nguyễn Khuyến chọn ao thu để khơi nguồn thi hứng, vì đó là điệu tâm hồn ông: thân mật, chân thành, bình dị, vô cùng gắn bó với làng quê. Chiếc  ao thu trong tấm lòng yêu thương và rung cảm thẩm mĩ của Nguyễn Khuyến đẹp và gợi cảm hứng như một tác phẩm mĩ thuật. Chiếc ao thu ấy “ lạnh lẽo” một cách đầy chất thơ. Gió thu đã mang theo heo may về và ban phát cho vạn vật của mùa thu để cho nó đáng yêu hơn. Từ cái nóng oi khó chịu của mùa hè chuyển sang cái se lạnh của heo may mới thật là thi vị. Đã vắng những cơn mưa rào xối xả của mùa hạ, nước trong ao thu thấm cái lạnh lẽo của heo may mà lắng trong đến độ như được chọn lọc, trong vắt “ trong veo” đến tận đáy. Bên trong cái tiếng “ trong veo” đặt ở cuối câu thơ như có niềm rung cảm thích thú. Trời hôm ấy lặng gió và rất nhiều nắng, rất sáng, nước trong ao mới có độ “ trong veo” như thế. Mới chỉ nói nước thu (thu thủy) mà ta đã thấy trời thu, nắng thu, gió thu. Độ hàm súc, sự tinh tế trong cách dùng từ của Nguyễn Khuyến cũng thật đáng nể. Trước mắt người đọc là một khoảng không gian mùa thu trong sáng và tĩnh lặng vô cùng.
Hiện lên trên khuôn “ ao thu”, giữa không kí thu “ lạnh lẽo” ấy là “ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Người đi câu không ngồi trên bờ mà ngồi trên chiếc  thuyền câu để buông câu chính là để mở góc nhìn không gian thu cho rộng ra. Ao thu chắc không thể to lắm, cho nên chiếc thuyền câu cũng phải “ bé tẻo teo”. Đó chính là chiếc thuyền thúng quen thuộc ở vùng quê Bình Lục, chiếc thuyền chỉ vừa đủ cho một người ngồi, vừa đủ để gọi là “ thuyền”, nhỏ hơn chút nữa thì thành cái thúng! Cách đây non một thế lỉ người ta thấy rất nhiều chiếc thuyền thúng như thế len lỏi giữa xóm làng của Hà Nam, nước lụt mênh mang “ Bóng thuyền thấp thoáng vừa trên vách - Tiếng sóng long lanh vỗ trước nhà” ( Nguyễn Khuyến, Vịnh lụt).
Ngồi trên chiếc thuyền giữa ao thu nên nhiều vẻ đep của mùa thu dễ đến trong tầm nhìn của thi sĩ.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Hai câu thực là cảnh trong tầm nhìn gần ( cận cảnh). Trong ao nhỏ có sóng, có gió nhưng rất nhỏ, rất nhẹ và và rất đẹp. “Sóng biếc” nghĩa là “sóng xanh”; sóng theo gió nhẹ chỉ “ hơi gợn” trên mặt ao thành hình, “lá vàng” cũng theo gió “ khẽ đưa” thành tiếng. Cả hình và tiếng đều cực nhỏ. Cuối hai câu thơ, nổi lên hai từ đối nhau: “ ”, “ vèo”- một từ nói lên cái cực nhỏ của hình  khối, một từ diễn tả sự cực nhỏ của âm thanh, người đọc còn nhận dạng được chiếc lá với hình dài thon nhọn, nhẹ và nhỏ: chiếc lá tre, lá trúc đang xoay xoay mà liệng xuống. Không gian động mà tĩnh, hữu thanh mà vô thanh. Những làn sóng hơi gợn, âm thanh mơ hồ của chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” như xao động trong cõi lòng cũng tĩnh lặng như làng quê, mùa thu của thi sĩ.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Không gian nghệ thuật đột ngột mở lên chiều cao và mở ra hướng trước mặt. Trên cao là trời thu cao xanh, trước mặt là đường làng ngõ xóm mùa thu quanh co, vắng vẻ. Trong cảm nhận của Nguyễn Khuyến, da trời mùa thu có màu “ xanh ngắt” rất khơi gợi, cái màu xanh liền một khối tinh khiết, thăm thẳm, khiến cho những ai ngẩng mặt lên ngắm trời thu đềucó cảm giác mông lung, huyền ảo, vời vợi. Nhờ có “ tầng mây lơ lửng” bên dưới mà nhận ra “ trời xanh ngắt” bên trên. Đó là một nét quen thuộc thi pháp cổ điển: lấy điểm tả diện.
Đang vào vụ thu, người ra đồng làm lụng nên đường làng ngõ xóm vắng lặng. Thảng hoặc có người thì cũng bị cái quanh co của ngõ trúc che khuất. Thành thử không gian vắng lặng đên tuyệt đối: “vắng teo”!
Ở hai cặp câu thực và luận có đủ sóng gió, trời, mây, có màu sắc, âm thanh, hình ảnh, có chuyển động, …Nhưng mỗi từ ngữ trong bốn dòng thơ ấy đều gợi cho ta phải đọc bằng giọng êm dịu, nhẹ nhẹ. Âm hưởng bốn dòng thơ nhẹ êm như hơi thở.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá dâu đớp động dưới chân bèo
Đến đây chủ thể trữ tình mới xuất hiện, xuất hiện trong tư thế ngồi bất động “ tựa gối ôm cần” - tư thế co lại, như thu nhỏ mình lại để giảm bớt diện tích tỏa nhiệt tránh cái” lạnh lẽo” giữa ao thu. Ngồi như thế cũng là để ngồi cho lâu, cho khỏi phải thay đổi tư thế làm mất đi cái tĩnh lặng trong cõi lòng đang mải suy tư và khỏi đứt đi “dây tơ” vô hình đang giăng mắc trong không gian mùa thu làng quê êm đềm, bởi vì “ Không gian như có dây tơ - Bước đi sẽ dứt, động hờ sẽ tiêu” ( Xuân Diệu). Nguyễn Khuyến muốn ngồi trong tĩnh lặng mà trầm tư mặc tưởng, gắn cái cô đơn trống trải của lòng mình vào cái cô tịch, trong trẻo của mùa thu làng quê. Thực ra khi lấy cớ đau mắt nặng để cáo quan về hưu ẩn dật, Nguyễn Khuyến đã mang nặng mặc cảm bất lực trước thời cuộc. Trong bài thơ Di chúc, ông có những câu thơ đau đáu đến từng chữ.
Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời.
Cho nên, thấm đẫm trong Thu điếu là tâm sự rối bời trước thời thế của ông, ôm cần buông câu để tiêu sầu mà mối sầu càng đọng lại trong tư thế bất động, thấy chiếc “ lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” mà thảng thốt thấy thời thế thay đổi quá nhanh, non sông đã rơi vào tay giặc mà mình chẳng thể làm gì để báo đền ơn vua, nợ nước.
Bài thơ kết lại trong cái thảng thốt khi trong im lặng bỗng có tiếng cá “ đớp động dưới chân bèo”. Chữ “đâu” được dùng thật thần tình, nó như cái giật mình thảng thốt, lại như cái ngơ ngác kiếm tìm của người mất phương hướng. Ba phụ âm đầu hữu thanh trong ba từ “ đâu đớp động” làm rung động câu thơ, rung động cả tâm hồn người đang mải suy tư. Dù chỉ là rung động mơ hồ (có mà như không) cũng đủ làm cho không gian mùa thu lắng lại tĩnh vô cùng. Đó cũng là  một nét thi pháp quen thuộc của thi pháp: lấy động tả tĩnh.
Tiếng Việt trong Câu cá mùa thu ở độ kết tinh, giản dị, trong sáng, tinh tế,uyển chuyển, có khả năng diễn tả những biến thái tinh vi của sự vật, nững uẩn khúc rất khó giãi bày tâm trạng. Vần “eo”“ tử vận”, oái oăm không dễ theo, đã được Nguyễn Khuyến dùng một cách thần tình để diễn đạt uẩn khúc của tâm tư.
Vẻ đẹp giản dị, thanh sơ của mùa thu làng quê Việt Nam; vẻ đẹp của tâm hồn Nguyễn Khuyến: trong sáng, bình dị, tinh tế và chân thành, rất gắn bó với những gì thuộc về quê hương và dân tộc…, đó là những gì đã làm cho bài thơ Câu cá mùa thu sống mãi trong lòng các thế hệ bạn đọc.

3 nhận xét: