THU ĐIẾU
Làng cảnh
Việt Nam lúc đất trời vào thu đẹp một vẻ đẹp thanh sơ, bình dị mà
thật nên thơ, nhưng không mấy ai đưa
được vẻ đẹp ấy vào thơ một cách thân tình như Nguyễn Khuyến. Cũng
chẳng mấy ai nói được tình cảm bình dị mà lắng sâu của con người
Việt Nam với làng xóm quê hương như ông. Nhắc đến Nguyễn Khuyến, người
yêu thơ không quên được chùm thơ của ông viết về mùa thu như một chùm
hoa đẹp có hương sắc lâu bền, trong đó bài Câu cá mùa thu được coi là
một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Khuyến. Bài thơ có sự
hòa hợp giữa cảnh thiên nhiên thanh sơ của nông thôn êm đềm, vắng lặng
vào tiết thu với tâm trạng thời
thế kín đáo của thi sĩ
Nhan đề bài
thơ là Câu cá mùa thu nhưng mục đích
không ở việc kiếm cá ăn; câu cá chỉ là cái cớ để tiêu sầu và
cảm nhận hương sắc mùa thu. Còn gì thú vị hơn được ngồi câu cá giữa
một vùng phong cảnh quen thuộc của
quê hương mình, để hồn thu thấm vào hồn người. Lúc Nguyên Khuyến viết
bài thơ này, gót giày quân xâm lược Pháp đã đặt lên nhiều nơi trên
đất nước, xã hội thuộc địa đã được lập nên ở vài đô thị. Nhưng
làng quê Việt Nam, làng quê nghìn đời của Nguyễn Khuyến vẫn giữ được
vẻ đẹp thanh sạch, giản dị, duyên dáng như cô gái chân quê xứ Bắc với
“ cái áo tứ thân, cái khăn mỏ quạ,
cái quần nái đen”. Nguyễn Khuyến đi câu cá là để tắm mình trong
không khí nguyên sơ ấy của mùa thu quê hương cho khuây khỏa nỗi thương
đau trong lòng.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Bài thơ mở
ra thời gian và không gian nghệ thuật đầy thi vị, đầy ắp không khí
làng cảnh vùng đồng bằng Bắc Bộ. Vì đi câu cá nên điểm xuất phát
của cảm hứng là chiếc “ao thu”.
Ao là một hình ảnh thân quen, thân mật, bình dị ở làng quê xứ Bắc.
Nguyễn Khuyến chọn ao thu để khơi nguồn thi hứng, vì đó là điệu tâm
hồn ông: thân mật, chân thành, bình dị, vô cùng gắn bó với làng quê.
Chiếc ao thu trong tấm lòng yêu
thương và rung cảm thẩm mĩ của Nguyễn Khuyến đẹp và gợi cảm hứng
như một tác phẩm mĩ thuật. Chiếc ao thu ấy “ lạnh lẽo” một cách đầy chất thơ. Gió thu đã mang theo heo
may về và ban phát cho vạn vật của mùa thu để cho nó đáng yêu hơn.
Từ cái nóng oi khó chịu của mùa hè chuyển sang cái se lạnh của heo
may mới thật là thi vị. Đã vắng những cơn mưa rào xối xả của mùa
hạ, nước trong ao thu thấm cái lạnh lẽo của heo may mà lắng trong đến
độ như được chọn lọc, trong vắt “ trong
veo” đến tận đáy. Bên trong cái tiếng “ trong veo” đặt ở cuối câu thơ như có niềm rung cảm thích thú.
Trời hôm ấy lặng gió và rất nhiều nắng, rất sáng, nước trong ao mới
có độ “ trong veo” như thế. Mới
chỉ nói nước thu (thu thủy) mà ta đã thấy trời thu, nắng thu, gió
thu. Độ hàm súc, sự tinh tế trong cách dùng từ của Nguyễn Khuyến
cũng thật đáng nể. Trước mắt người đọc là một khoảng không gian mùa
thu trong sáng và tĩnh lặng vô cùng.
Hiện lên trên
khuôn “ ao thu”, giữa không kí thu
“ lạnh lẽo” ấy là “ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.
Người đi câu không ngồi trên bờ mà ngồi trên chiếc thuyền câu để buông câu chính là để mở
góc nhìn không gian thu cho rộng ra. Ao thu chắc không thể to lắm, cho
nên chiếc thuyền câu cũng phải “ bé
tẻo teo”. Đó chính là chiếc thuyền thúng quen thuộc ở vùng quê
Bình Lục, chiếc thuyền chỉ vừa đủ cho một người ngồi, vừa đủ để
gọi là “ thuyền”, nhỏ hơn chút
nữa thì thành cái thúng! Cách đây non một thế lỉ người ta thấy rất
nhiều chiếc thuyền thúng như thế len lỏi giữa xóm làng của Hà Nam,
nước lụt mênh mang “ Bóng thuyền
thấp thoáng vừa trên vách - Tiếng sóng long lanh vỗ trước nhà” (
Nguyễn Khuyến, Vịnh lụt).
Ngồi trên chiếc thuyền giữa
ao thu nên nhiều vẻ đep của mùa thu dễ đến trong tầm nhìn của thi sĩ.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Hai câu thực
là cảnh trong tầm nhìn gần ( cận cảnh). Trong ao nhỏ có sóng, có
gió nhưng rất nhỏ, rất nhẹ và và rất đẹp. “Sóng biếc” nghĩa là “sóng
xanh”; sóng theo gió nhẹ chỉ “
hơi gợn” trên mặt ao thành hình, “lá
vàng” cũng theo gió “ khẽ đưa”
thành tiếng. Cả hình và tiếng đều cực nhỏ. Cuối hai câu thơ, nổi lên
hai từ đối nhau: “ tí”, “ vèo”- một từ nói lên cái cực
nhỏ của hình khối, một từ diễn
tả sự cực nhỏ của âm thanh, người đọc còn nhận dạng được chiếc lá
với hình dài thon nhọn, nhẹ và nhỏ: chiếc lá tre, lá trúc đang xoay
xoay mà liệng xuống. Không gian động mà tĩnh, hữu thanh mà vô thanh.
Những làn sóng hơi gợn, âm thanh mơ hồ của chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” như xao động trong cõi
lòng cũng tĩnh lặng như làng quê, mùa thu của thi sĩ.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Không gian
nghệ thuật đột ngột mở lên chiều cao và mở ra hướng trước mặt. Trên
cao là trời thu cao xanh, trước mặt là đường làng ngõ xóm mùa thu
quanh co, vắng vẻ. Trong cảm nhận của Nguyễn Khuyến, da trời mùa thu
có màu “ xanh ngắt” rất khơi
gợi, cái màu xanh liền một khối tinh khiết, thăm thẳm, khiến cho
những ai ngẩng mặt lên ngắm trời thu đềucó cảm giác mông lung, huyền
ảo, vời vợi. Nhờ có “ tầng mây lơ
lửng” bên dưới mà nhận ra “ trời
xanh ngắt” bên trên. Đó là một nét quen thuộc thi pháp cổ điển:
lấy điểm tả diện.
Đang vào vụ thu, người ra
đồng làm lụng nên đường làng ngõ xóm vắng lặng. Thảng hoặc có
người thì cũng bị cái quanh co của ngõ trúc che khuất. Thành thử
không gian vắng lặng đên tuyệt đối: “vắng
teo”!
Ở hai cặp
câu thực và luận có đủ sóng gió, trời, mây, có màu sắc, âm thanh,
hình ảnh, có chuyển động, …Nhưng mỗi từ ngữ trong bốn dòng thơ ấy
đều gợi cho ta phải đọc bằng giọng êm dịu, nhẹ nhẹ. Âm hưởng bốn
dòng thơ nhẹ êm như hơi thở.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá dâu đớp động dưới chân bèo
Đến đây chủ
thể trữ tình mới xuất hiện, xuất hiện trong tư thế ngồi bất động “ tựa gối ôm cần” - tư thế co lại,
như thu nhỏ mình lại để giảm bớt diện tích tỏa nhiệt tránh cái” lạnh lẽo” giữa ao thu. Ngồi như thế
cũng là để ngồi cho lâu, cho khỏi phải thay đổi tư thế làm mất đi
cái tĩnh lặng trong cõi lòng đang mải suy tư và khỏi đứt đi “dây tơ” vô hình đang giăng mắc trong
không gian mùa thu làng quê êm đềm, bởi vì “ Không gian như có dây tơ - Bước đi sẽ dứt, động hờ sẽ tiêu”
( Xuân Diệu). Nguyễn Khuyến muốn ngồi trong tĩnh lặng mà trầm tư mặc
tưởng, gắn cái cô đơn trống trải của lòng mình vào cái cô tịch,
trong trẻo của mùa thu làng quê. Thực ra khi lấy cớ đau mắt nặng để
cáo quan về hưu ẩn dật, Nguyễn Khuyến đã mang nặng mặc cảm bất lực
trước thời cuộc. Trong bài thơ Di
chúc, ông có những câu thơ đau đáu đến từng chữ.
Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời.
Cho nên, thấm
đẫm trong Thu điếu là tâm sự rối bời trước thời thế của ông, ôm cần
buông câu để tiêu sầu mà mối sầu càng đọng lại trong tư thế bất
động, thấy chiếc “ lá vàng trước
gió khẽ đưa vèo” mà thảng thốt thấy thời thế thay đổi quá nhanh,
non sông đã rơi vào tay giặc mà mình chẳng thể làm gì để báo đền ơn
vua, nợ nước.
Bài thơ kết
lại trong cái thảng thốt khi trong im lặng bỗng có tiếng cá “ đớp động dưới chân bèo”. Chữ “đâu” được dùng thật thần tình, nó
như cái giật mình thảng thốt, lại như cái ngơ ngác kiếm tìm của
người mất phương hướng. Ba phụ âm đầu hữu thanh trong ba từ “ đâu đớp động” làm rung động câu thơ,
rung động cả tâm hồn người đang mải suy tư. Dù chỉ là rung động mơ hồ
(có mà như không) cũng đủ làm cho không gian mùa thu lắng lại tĩnh vô
cùng. Đó cũng là một nét thi pháp
quen thuộc của thi pháp: lấy động tả tĩnh.
Tiếng Việt
trong Câu cá mùa thu ở độ kết tinh, giản dị, trong sáng, tinh tế,uyển
chuyển, có khả năng diễn tả những biến thái tinh vi của sự vật,
nững uẩn khúc rất khó giãi bày tâm trạng. Vần “eo” là “ tử vận”, oái
oăm không dễ theo, đã được Nguyễn Khuyến dùng một cách thần tình để
diễn đạt uẩn khúc của tâm tư.
Vẻ đẹp giản dị, thanh sơ của mùa thu
làng quê Việt Nam; vẻ đẹp của tâm hồn Nguyễn Khuyến: trong sáng, bình
dị, tinh tế và chân thành, rất gắn bó với những gì thuộc về quê
hương và dân tộc…, đó là những gì đã làm cho bài thơ Câu cá mùa thu
sống mãi trong lòng các thế hệ bạn đọc.
Hay quá tác giả ơi !
Trả lờiXóaHay quá
Trả lờiXóaBài hay quá. Bạn có thể vào xem thêm nhiều bài viết Nghĩa là gì
Trả lờiXóa