MÔ TẢ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
Ở NAM
BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
I. Phiên âm quốc ngữ: (phiên âm truyện Nôm)
Phiên âm quốc ngữ là chuyển từ
hình thức tồn tại bằng Hán Nôm sang quốc ngữ.
- TrươngVĩnh Ký Kim Vân Kiều truyện (1875).
Lục súc tranh công (1884).
Lục Vân Tiên truyện, Phan Trần
truyện (1889)
-
Phan Đức Hòa – Nhị độ mai (1884).
- Nguyễn Hữu Thoại – Văn Doan diễn ca (1896).
- Lương Khắc Ninh – Sãi Vãi (1901).
-
Huỳnh Tịnh Của Quan Âm diễn ca (1903).
Trần
Sanh diễn ca (1905).
Chinh
phụ ngâm, Bạch Viên Tôn Các,
Thoại Khanh Châu Tuấn, Chiêu Quân cống
Hồ (1906).
=> Việc phiên Nôm và xuất bản các
truyện Nôm dưới hình thức quốc ngữ, người Việt Nam không coi là một
phong trào nhất thời. Nó kéo dài nhiều năm tồn tại song song với nền
biên khảo văn học. Trương Vĩnh Ký là người đầu tiên trong việc phiên âm
quốc ngữ đem lại hình thức tồn tại mới, sức sống mới cho văn học
đặc biệt cho các truyện Nôm vốn rất được yêu thích trong dân gian.
Hình thức đọc cũng là một cách trau dồi quốc ngữ hữu hiệu, đưa
quốc ngữ đi sâu vào đời sống, chuẩn bị cho những mục tiêu to tát hơn
sau này.
Ý nghĩa hiện đại hóa là nó
đã đem lại một sức sống mới và
một hình thức tồn tại mới cho các truyện Nôm.
II. Dịch
thuật:
Dịch
thuật không đơn giản là chuyển ngữ mà còn dịch văn hóa giới thiệu
văn hóa, đối chiếu văn hóa. Một dân tộc biết dịch thuật là một dân
tộc có ý thức cao về văn hóa và giao lưu làm phong phú các luồng
giao lưu và cân đối các luồng ảnh hưởng, dân tộc hóa các giá trị
ngoại lai. Hoạt động dịch thuật ở Việt Nam gần như chỉ được chính
thức là một sinh hoạt học thuật sau khi chữ quốc ngữ thịnh hành.
- Dịch Hán văn:
+
Dịch kinh sách:
Trương Vĩnh Ký Đại Nam
quốc sử diễn ca (1875).
Trung Dung, Đại Học (1881).
Minh Tâm Bửu Giám (1893).
Tứ thư (1889).
Tam Tự kinh (1884).
Trương Minh Ký Kinh
Thi (1889)
Tiểu học gia ngôn diễn nghĩa (1889).
Trị Gia cách ngôn (1895).
Ca
từ diễn nghĩa (1896).
+ Dịch truyện Tàu: Phức
tạp hơn, rất nhiều dịch giả với nhiều truyện, tuồng tích thuộc cả 2
dòng bình dân và bác học: Tam quốc,
Thủy Hử, Đông chu liệt quốc → đạt thành tựu rực rỡ.
- Dịch Pháp văn:
+ Trương Minh Ký Truyện
Phan Sa (1884)
Têlê mặc phiêu lưu ký (1887)
Truyện nhi đồng Francinet (1885).
Phú bần truyện diễn ca
(1896).
Robinson
trên hoang đảo (1886).
+ Trần Chánh Chiếu Tiền căn hậu báo (1907).
Ba chàng ngự lâm (1914).
* Các luồng ảnh hưởng Đông Tây
trong dịch thuật:
- Ảnh hưởng Trung Hoa: Suốt
nhiều thế kỷ, các tài năng lớn của VHVN thường dấu đi khía cạnh
sáng tạo của mình, các hiện tượng như “Tập cổ, vay mượn, biến đổi, xâu chuỗi các chủ đề, biện pháp nghệ thuật, cốt truyện
có sẵn” tuy nhiên, bản sắc Việt Nam vẫn được gìn giữ. Sau thời kỳ
Trương Vĩnh Ký dịch các sách kinh điển Trung Hoa ra quốc ngữ đến thời
kỳ các truyện Tàu được dịch ồ ạt, một thế hệ dịch giả hùng hậu
xuất hiện.
Cụ thể: Nguyễn Chánh Sắt có một công trình khá đồ sộ: Tây Hớn, Đông Hớn, Tam quốc chí, Chung
Vô Diệm, Ngũ hổ bình tây, Anh hùng náo tam môn giai, Mạnh Lệ Quân,
Nhạc Phi, Thập nhị quả phụ…
→Dịch văn học Trung Hoa không bị ràng buộc bởi văn học chính
thống, tiếp nhận trọn vẹn tinh thần của tác phẩm theo cách dân chủ
bình đẳng, tự do. Việc yêu thích truyện Tàu là yêu thích chất lý
tưởng của nó. Điều này đã khẳng định người Việt Nam sớm biết vượt
qua cái tinh thần lệ thuộc đã biết chọn lọc, khám phá, thưởng thức
và yêu mến cái đẹp cái lý tưởng cũng như giá trị nhân bản nhân
văn.Cách tiếp nhận các quan điểm tư tưởng và đạo đức Trung Hoa trong
văn học quốc ngữ Nam bộ là một sự kiện có ý nghĩa trong quá trình
hiện đại hóa, dân tộc hóa các giá trị ngoại lai.
- Ảnh hưởng Tây phương, nhất là Pháp: Mối giao lưu văn hóa giữa
phương Tây với Việt Nam xảy ra muộn trong hoàn cảnh không thuận tiện.
Văn học quốc ngữ ở miền Nam đã tỏ ra có cách xử lý riêng trong quá
trình tiếp nhận văn học phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp. Phong
trào hiện đại hóa theo phong cách phương Tây trong văn chương Việt Nam
chỉ được tính tuổi chính thức từ 1932 cho đến khi một thư mục của
văn học quốc ngữ ở Nam kỳ được thiết lập với bằng chứng hiển nhiên
cho thấy sự tiếp nhận văn học Pháp đã đến sớm nhất qua các tác
phẩm dịch đã xuất hiện ở Nam kỳ từ nửa sau thế kỷ XIX.
Cụ thể: Robinson trên hoang đảo, truyện nhi đồng, một số tác
phẩm của La Fontaine, Tiền căn hậu
báo, Ba chàng ngự lâm.
→ Vậy người miền Nam
đã lựa chọn một tinh thần như thế nào? Đầu tiên phải kể đến yếu tố
ngẫu nhiên: Những tác phẩm được chọn dịch thường phản ánh những
hoàn cảnh cũng như những quan điểm nhân sinh, đạo đức có phần gần
gũi với hoàn cảnh và tâm tình con người miền Nam thời kỳ này. Trong
những thập niên sau chủ yếu dịch Pháp văn còn hướng vào mục tiêu kinh
tế, xã hội, chính trị hướng về phong trào duy tân. Văn học Pháp,
khái niệm “phân dòng” (bác học và bình dân) không phải là vấn đề
quan trọng và càng không phải là tiêu chí phân định các giá trị văn
học. Văn học quốc ngữ miền Nam đã tiếp nhận từ văn học Pháp cái
tính chất hài hòa bình đẳng đó. Từ đó xuất hiện tính dân chủ,
tính đại chúng, tính thực tiễn trong phương thức sáng tác, lưu hành
truyền bá và đặc biệt là tính độc lập trong quá trình tiếp nhận
văn học phương Tây.
=> Tóm lại: Dịch thuật văn học
miền Nam
đã phá bỏ “Thiên triều, mẫu quốc” chỉ còn “bình đẳng”.
III.Phóng
tác:
Là hình thức tiếp nhận chủ động nhưng không giữ nguyên văn bản
mẫu được dịch. Phóng tác thường giữ lại đề tài nhưng chủ đề, tư
tưởng tác phẩm có thể thay đổi. Trong ba thập niên đầu của thế kỉ XX
gắn liền với việc dịch thuật văn học thì phóng tác cũng là một
hình thức được nhiều người lựa chọn.
- Trên báo Lục Tỉnh Tân văn ở Nam kỳ số 32 ra ngày 25/01/1908
đăng bài viết ngắn tựa đề “chuyện mang tiếng oan” của Trần Chánh Chiếu
phóng từ truyện ngắn “Đêm No en” của Guy de Maupassant.
- Một số tiểu thuyết có nguồn gốc phóng tác của Hồ Biểu
Chánh trong 2 thập kỷ đầu của thế kỷ XX: “Vậy mới phải “ (1922) → Vở
“Le Cid” của Corneiile; “Chúa Tàu Kim Quy” (1922) → “Le comte de Monte
cristo”; “Ngọn cỏ gió đùa” (1926) → “ Những người khốn khổ”.
=> Trong các tác phẩm được du
nhập vào Việt Nam trong 3 thập kỷ đầu của thế kỷ XX, điều nổi bật
nhất là sự hiện diện đậm nét của cảm hứng vĩ mô trong cách tiếp
cận đề tài với các vấn đề về tình người, đạo lý, nhân nghĩa… trong
một phạm vi cuộc sống rộng lớn. Các nhà văn Việt Nam chủ động, tự
chủ trước văn hóa của người, tự tin trước văn hóa của mình, thường
quan tâm nhiều đến giá trị tinh thần mà xã hội Việt Nam đòi hỏi chứ
không bị ràng buộc vào cái “vỏ tây” bề ngoài. Từ đó dẫn đến xu
hướng phóng tác chứ không dịch y nguyên tác, thể hiện ý thức dân tộc
hóa mạnh mẽ trong việc dịch thuật các tác phẩm văn học Pháp ở Việt
Nam đầu thế kỷ XX. Đây cũng là nét thống nhất trong quá trình hiện
đại hóa của văn học dân tộc.
IV. Nghiên cưú biên khảo, sưu tầm văn học:
Nền biên khảo bằng quốc ngữ đã
được khơi nguồn từ Trương Vĩnh Ký. Bao gồm sưu tầm, nghiên cứu văn hóa
văn học Đông Tây nhưng chủ yếu là VHVN. Trong đó có mảng VHDG như: Ca
dao, tục ngữ, truyện cổ tích, tiếu lâm…là một thành tựu đáng chú
ý.
- Nhắc đến mảng nghiên cứu biên
khảo sưu tầm phải nhắc đến Trương Vĩnh Ký – một trí thức lương thiện
và ngây thơ muốn đem văn minh Tây học về cho đất nước, là người tiên
phong cho nền văn học hiện đại qua mảng nghiên cứu, biên khảo, sưu tầm:
+ Chuyện đời xưa (tuyển
tập cổ tích, ngụ ngôn dân gian Việt Nam, 74 chuyện,
1886)
+ Truyện khôi hài (gồm các
truyện tiếu lâm dân gian của 3 miền Trung Nam Bắc, có cả truyện Tú Xuất, 1882).
+ Thông Loại Khoái Trình (một
tập san đặc biệt dành cho sưu tầm biên khảo văn học, chỉ tồn tại
không tới 2 năm 1888 -1889 do Trương Vĩnh Ký chủ biên)
- Kế đến phải kể đến Huỳnh Tịnh
Của :
+ Chuyện giải
buồn, cuốn 1 gồm 61 chuyện (1886), cuốn 2 gồm 31 chuyện.
+ Truyện khôi hài.
+ Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn (1896).
+ Sưu tầm Câu hát góp (1910) gồm 1020 câu hò dân gian Nam bộ.
+ Đại Nam
quốc âm tự vị (1895) là tự điển quốc ngữ đầu tiên của nền ngữ
học Việt Nam.
- Trương Minh Ký là học trò giỏi
của Trương Vĩnh Ký cũng có công trình biên khảo sau:
+ Ca từ diễn nghĩa (1896).
+ Thi pháp nhập môn (1898.)
- Lê Quang Chiểu với Quốc âm thi hợp tuyển (1903).
- Võ Sâm với Thi
Phú Văn Từ (1912).
- Đặng Lễ Nghi với Câu hát kim thời (1915).
- Lê Sum với Việt
âm văn tuyển(1919).
- Nguyễn Văn Kính với Nam Âm (1925).
=> Mảng biên khảo sưu tầm đã xác định một quan niệm mới về
sự tồn tại của văn chương trong xã hội, về mối quan hệ giữa văn
chương với dân chúng. Nó đại chúng hóa các giá trị văn học bác học,
mở rộng quyền hưởng thụ văn học nghệ thuật của toàn dân và thể
hiện rõ tính dân chủ của nền văn học hiện đại Việt Nam.
* Ý
nghĩa tiên phong của văn học ở Nam bộ cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX:
- Văn
học ở Nam
bộ thời kỳ này có tính tiên phong. Vì quá trình hiện đại hóa văn
học Việt Nam đã bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX theo nhiều phương thức
như cách tân dần dần văn học truyền thống theo kiểu phương Tây, hoặc
gấp rút hiện đại hóa văn học Việt Nam qua con đường tiếp nhận trực
tiếp văn học Pháp. Nói cách khác, đó là quá trình chuyển biến từ
tiệm tiến đến nhảy vọt. Tiến trình hiện đại hóa của văn học quốc
ngữ miền Nam đã diễn ra bằng tất cả các phương thức trên và đồng
thời thể hiện khá đầy đủ những nét lớn của quá trình hiện đại
hóa của văn học Việt Nam nói chung (sau giai đoạn đặt nền móng ở
miền Nam, sẽ đạt đến thắng lợi hoàn toàn trong thời gian tiếp theo ở
miền Bắc).
- Văn
học ở Nam
bộ thời kỳ này còn mang tính toàn diện. Điều này thể hiện trong cơ
cấu gồm: nghiên cứu văn học (biên khảo sưu tầm); dịch thuật, phóng
tác; sáng tác phong phú về thể loại (tiểu thuyết, truyện ngắn; ký,
hồi ký, tự truyện ; thơ ca: Trữ tình, chính trị, xã hội; văn chương
chính luận).
- Bên
cạnh tính toàn diện, văn học Nam bộ thời kỳ này còn mang tính toàn dân tộc.
Mặc dù, nho học bước vào giai đoạn cuối mùa trong xã hội giao thời
nhưng ảnh hưởng Nguyễn Đình Chiểu còn tỏ ra rất sâu đậm trong quá
trình hiện đại hóa. Từ đó có thể
hiểu tại sao xu hướng đạo lý còn tồn tại khá lâu trong tiểu thuyết
và truyện ngắn, tiêu biểu nhất là trường hợp Hồ Biểu Chánh. Do hiện
đại hóa sớm nên văn học quốc ngữ Nam bộ một mặt còn gắn bó với
phong cách văn chương cổ (Văn biền ngẫu, phong cách ngôn từ truyền thống);
mặt khác lại có những cách tân bước đầu rất đáng kể trong việc xây
dựng một phong cách ngôn ngữ văn chương không theo con đường quy phạm,
mà chú trọng tính chân thực, sinh động, đặc biệt là giữ bản sắc
địa phương của lời ăn tiếng nói hàng ngày.
Trong hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử miền Nam , việc tiếp nhận ảnh hưởng
tây phương trong văn học quốc ngữ là một quá trình phức tạp và tế
nhị. Thái độ của văn chương miền Nam đối với cái cũ và cái mới
không ồ ạt, quyết liệt mà những dấu hiệu hiện đại hóa diễn ra một
cách ôn hòa, thể hiện trong quá trình cách tân và chuyển đổi sâu sắc
về cảm hứng, đề tài sáng tác, bên cạnh các yếu tố khác như ngôn
ngữ văn chương, cách xây dựng nhân vật…
=> Nói tóm lại: tính toàn diện và tính toàn dân tộc làm
nổi bật cho tính tiên phong của văn học ở Nam bộ cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX.
|
||||
|
||||
-
Trương Vĩnh Ký -
Trương Vĩnh Ký
-
Trương Minh Ký -
Huỳnh Tịnh Của
Hán Văn Pháp
Văn
- Trương Vĩnh Ký -
Trương Minh Ký
- Hồ Biểu Chánh
-
Trần Phong Sắc - Trần Chánh Chiếu - Trần Chánh
Chiếu
-
Nguyễn Chánh Sắt
=>
Ý nghĩa tiên phong.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét