Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2012

NHỮNG GIÁ TRỊ VỀ NỘI DUNG CỦA TẬP TRUYỆN HƯƠNG MÁU


 NHỮNG GIÁ TRỊ VỀ NỘI DUNG CỦA TẬP TRUYỆN  HƯƠNG MÁU

1.      Lý do chọn đề tài
Nguyễn Văn Xuân là một trong những cây bút của thời kì văn học thành thị miền Nam yêu nước giai đoạn1964-1975, những sáng tác của ông đã ngược dòng thời gian, tái hiện lại những giờ phút bi kịch cũng như những trang sử sáng chói của dân tộc .
Nếu như Sơn Nam khai thác vùng đất cực Nam của Tổ quốc quen thuộc trong Hương rừng Cà Mau thì Nguyễn Văn Xuân gắn bó chặt chẽ với vùng quê Quảng Nam thân thương của ông. Với sự hiểu biết sâu sắc về sử học, dân tộc học, xã hội học, ông đã làm sống lại những sự kiện vang dội mà đau xót cũng như khắc họa sự thành công của hình ảnh những con người ưu tú của Đất Quảng. Cái nhìn của tác giả cũng khá độc đáo, ông không viết về những chiến công, những này đắc ý mà chọn tình huống ngược lại: những giai đoạn gian nan, những ngày thất bại của những người anh hùng, nghĩa sĩ này. Điều này ta có thể thấy rõ qua tập truyện ngắn Hương máu.
2.      Vài nét về tác giả và tập truyện Hương máu
Nhà văn, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân sinh ngày 10.5.1921 tại làng Thanh Chiêm xã Điện Phương huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam và mất ngày 04.7.2007. Ông sinh ra tại một ngôi làng nổi tiếng với nghề đúc đồng, nơi đã từng là dinh trấn của xứ Quảng với nhiều di sản văn hóa nổi tiếng. Ông đã may mắn sớm được thụ hưởng những mạch nguồn giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống từ quê hương, vùng đất địa linh nhân kiệt.
Tập truyện ngắn Hương máu xuất bản năm 1969 là tập truyện viết về những cái chết anh hùng, hiên ngang bất khuất, đôi khi lạnh lùng của người Quảng Nam. Nguyễn Văn Xuân đã làm sống lại những sự kiện vang dội mà đau xót cũng như đã khắc họa thành công hình ảnh những con người ưu tú của đất Quảng như: Hoàng Diệu, Thái Phiên, Trần Cao Vân, các lãnh tụ Cần vương như Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến… Những cái chết lẫm liệt đó đã để lại trong lòng các thế hệ sự khâm phục, day dứt khôn nguôi.
Đi sâu tìm hiểu tập truyện Hương máu của nhà văn Nguyễn Văn Xuân để thấy được những đóng góp nổi bật của ông đối với nền văn học nước nhà. Tập truyện ngắn Hương máu ra đời trong những năm tháng đất nước ta, nhân dân ta đang chiến đấu chống lại sự tấn công ngày càng khốc liệt của chế độ Mỹ - Ngụy. Do đó, những vấn đề được tác giả đề cập đến trong từng truyện cũng không nằm ngoài dòng chảy của văn học yêu nước lúc bấy giờ. Đó là tiếng nói mang đậm màu sắc dân tộc và thấm đẫm tinh thần nhân văn sâu sắc.
Tập truyện ngắn Hương Máu của Nguyễn Văn Xuân bao gồm bảy truyện (Hương máu, Viên đội hầu, Thằng Thu, Về làng, Cái giỏ, Chiếc cáng điều, Rồi máu lên hương) đã để lại trong lòng người đọc biết bao cảm xúc và suy nghĩ. Tập truyện chưa hẳn là một tác phẩm văn chương kiệt tác nhưng đã thấm đẫm một tinh thần nhân văn sâu sắc và một tấm lòng rất đáng trân trọng của tác giả. Khi đi vào tìm hiểu tập truyện ta thấy được nhà văn Nguyễn Văn Xuân đã có những đóng góp xuất sắc đối với nền văn học nước nhà.
2. Những giá trị về nội dung trong tập truyện Hương Máu
2.1. Con người hy sinh cho sự nghiệp giải phóng quê hương, đất nước
Đến với tập truyện Hương máu, ta thấy mỗi nhân vật trong mỗi tác phẩm có những hành động khác nhau nhưng đều có một điểm chung là họ đấu tranh dũng cảm và hy sinh cho lợi ích chung của quê hương, đất nước. Những con người ấy họ có thể là những anh hùng hữu danh, những con người có thực đã một thời lừng danh trong lịch sử dân tộc, đồng thời họ cũng có thể là những người anh hùng do tác giả hư cấu lên. Nhưng tác giả không đơn thuần hư cấu theo trí tưởng tượng phóng đại mà đặt trên nền rộng là hình tượng nhân dân, bên cạnh đó là sự kết hợp giữa những nét có thật với những nét hư cấu.
 Trước hết, Nguyễn Văn Xuân đã tái hiện lại những hình tượng nhân vật anh hùng trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Pháp và đặc biệt đa phần là tái hiện lại phong trào Cần Vương ở quê hương xứ Quảng. Tác giả đã xây dựng lại hình tượng những danh tướng như Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến, Hồ Học, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề, Nguyễn Hữu Diễn, Tổng đốc Hoàng Diệu… Họ đều là những bậc trung thần, nghĩa sĩ  của triều đại phong kiến cuối cùng Việt Nam. Những con người đó nhận thức được trách nhiệm của mình trước thời cuộc và tự nguyện chiến đấu đến cùng để hoàn thành trọng trách của mình.Nhưng ở đây, nhà văn không đề cập đến quá trình chiến đấu hay chiến công hào hùng của họ. Điều mà tác giả phản ánh ở đây chính là khí phách cũng như tấm lòng của những con người này. Đây chính là tinh thần chủ đạo, thấm sâu vào mỗi người dân đất Việt cũng như những bậc danh tướng, bậc anh hùng của người con xứ Quảng nói riêng.
Trong truyện ngắn Hương máu, Nguyễn Văn Xuân trước hết đã tái hiện được những năm tháng đấu tranh gian khổ của nghĩa quân Cần Vương “Công việc hết sức nặng nhọc mà đời sống quá thiếu thốn, thuốc men gần như chỉ trông vào thuốc Nam, tức là lá và vỏ cây y dược trong rừng. Bệnh sốt rét vật chúng tôi có thể run, có thể  nóng phừng phừng rồi mồ hôi toát ra như tắm bất cứ lúc nào. Chúng tôi có thể bò lê, bò càng trên những con đường nhỏ dẫn vào rừng vì cơn sốt bất thần. Mà muốn sốt lúc nào cũng dễ: chỉ cần ăn quá số lượng mỡ hay ra đứng dưới trời nắng một lúc là đủ sức cho con bệnh rần rần chạy trong mạch máu. Da dẻ chúng tôi xám xịt, xương xẩu phơi trần và áo quần thiếu thốn cả. Trời nóng không nói làm gì, chớ đến những ngày lạnh, mà là cái lạnh của núi rừng, cái lạnh từ xương sống lạnh ra, lại không có đồ đồ đắp, ngoài chiếc chiếu rách hở đầu hở đuôi thì chúng tôi không làm sao ngủ được”. Mặc dù vậy nhưng họ vẫn thể hiện được ý chí kiên cường bất khuất.
Ca ngợi ý chí bất khuất kiên cường của nghĩa quân, bên cạnh đó tác giả còn khắc họa khá đậm nét tính cách của mỗi nhân vật trong tác phẩm, đồng thời, tâm tư tình cảm của tác giả cũng được thể hiện khá rõ qua truyện ngắn này. Mở đầu truyện, chúng ta bắt gặp hình ảnh hai con người tưởng như ở hai cực đối lập nhau nhưng thực ra là bổ sung cho nhau. Mỗi nhân vật mỗi nét tính cách khác nhau nhưng đều chiếm được tình cảm của cấp dưới, đó là nhân vật Phan Bá Phiến – cánh tay mặt của ông Hường (tức Nguyễn Duy Hiệu). Tác giả miêu tả: “…Ông là người rất mực bình tĩnh, trầm lặng, khác hẳn tính tình ông Hường. Ông cũng chu đáo, giản dị, dễ thân mật với mọi người. Ông thương yêu chúng tôi một cách thành thật, luôn luôn lo lắng cho chúng tôi…”[7; 241]. Còn ông Hường thì khác hẳn: “…Ông cương nghị, trực tính can đảm, yêu vua yêu nước nhưng cũng quá bạo liệt. Những điểm dị biệt này  kết hợp nơi ông, tạo cho con người tuấn tú, mũi diều hâu ấy một vẻ mặt, nhất là đôi mắt luôn âm ỉ nhiệt thành khiến không ai nhìn thấy mà không bị xúc động, không bị lôi cuốn. Ông đã nói chém là chém, giết là giết, thương quân sĩ không ai bằng nhưng có thể phút trước vừa khen thương, phút sau đã truyền chặt đầu, lệnh chặt đầu của ông đã ban ra, ít khi có ai đủ can đảm xin thay đổi, ngoại trừ ông Phan” [7; 246]. Hai viên tướng lĩnh hai tính cách nhưng có chung một tấm lòng, đều thương yêu nghĩa binh, đều rất tài giỏi và đều sống vì một lý tưởng chung. Chính vì vậy, tuy ông Hường có lúc tàn bạo nhưng vẫn được mọi người kính trọng, tôn thờ. Nhân vật xưng “tôi” trong truyện là một trong những người như vậy: “Tôi vốn là người rất khâm phục ông, coi ông như một vị anh hùng trong cổ tích. Tôi chỉ nuôi mỗi ước vọng là được thấy ông, được gần ông, được ông sai bảo, xem đó như “báu vật” không dễ gì có trong một đời thanh niên” [7; 246]. Như vậy có thể thấy những con người được nói đến trong tác phẩm này là những con người thực, có những phẩm chất “người” nhất và hiện ra cũng thật sinh động.
Hai con người này càng được kính trọng thông qua việc miêu tả cái chết của họ. Hai con người với hai cái chết khác nhau, một người chết thầm lặng và một người chết “công khai”. Với Phan Bá Phiến, ông đã tự nguyện tìm đến cái chết để bảo vệ bí mật của nghĩa quân. Ông không coi đó là một bất hạnh của mình mà xem đó như là một hành động chứng tỏ lòng trung thành với “Hoàng thượng”, với lý tưởng: “Ông đưa chén thuốc độc lên môi, thong thả nuốt từng ngụm một.Uống xong, ông đặt chén, ung dung nâng cái hốt ngà lên, đầu cúi xuống cho được trang nghiêm…Ông cố trấn tĩnh để khỏi rùng mình, không vật vã tuy nhiên cái rung động trên các nếp áo cho thấy sự chiến đấu nội tâm ghê gớm của ông. Khi sức lực gần kiệt, cái đầu bị gục xuống như người ngủ mê mà ông vẫn cố ngửng lên rồi quỳ ngồi xuống trong khi hai tay vẫn nghêm chỉnh nâng cái hốt lên. Tất cả những con mắt mờ lệ đều cố gắng thu nhận những sự kháng cự cuối cùng đối với cái chết của con người gầy gò nhưng đầy nghị lực phi thường đó” [7, tr.263]. Một cái chết thể hiện sự hiên ngang khí phách cho dù có đau đớn tới tận xương tủy nhưng vẫn giữ được lòng tôi trung.
Nếu như cái chết của Phan Bá Phiến là để bảo vệ “bí mật quân sự” thì cái chết của Nguyễn Duy Hiệu lại là để công khai hoạt động của nghĩa quân, trực tiếp nói lên lòng yêu nước của mình trước toàn dân và trước quân thù, không trốn tránh, không bí mật như trước đây. Mặt khác, với tấm lòng hy sinh hết mình vì nghĩa binh, ông Hường đã nhận toàn bộ trách nhiệm về mình để mở đường sống cho những người cấp dưới của mình: “Ông cho rằng lấy tư cách làm quan phụ đạo của vua, bậc thầy cũ của vua không thể bỏ vua mà không dẫn dắt, lấy tư cách một vị phó bảng – tức là nhà nho ông không thể không đặt chữ trung lên trên và quyết phải sống chết với địa phương, ông phải bảo vệ và phải chết với địa phương đã được ủy nhiệm. Như thế là ông thừa lênh vua và bắt tất cả các kẻ khác phải theo ông. Kẻ nào không theo, ông xử tử và đốt hết nhà cửa để răn chúng, thị chúng. Tất cả mọi người đều khiếp sợ mà theo, dầu muốn không theo cũng không được. Sau khi trình bày những lí lẽ chắc nịch ấy, ông bằng lòng chịu chết vì tất cả trách nhiệm thuộc về ông và chỉ xin các quan đừng theo dõi và hành hạ trả thù những kẻ khác vì họ chỉ bị động và họ đã quá đau khổ rồi” [7, tr.275-276]. Tấm lòng quảng đại của người thủ lĩnh đó đã làm cho hình tượng nhân vật này càng được nể phục:
Hảo Bá đan tâm triểu liệt thánh
Trung thu minh nguyệt bạn ngô quy
(Về chầu liệt thánh lòng son đấy
Tháng tám trăng rằm sẵn dịp đưa)
Bên cạnh các nhân vật Phan Bá Phiến, Nguyễn Duy Hiệu tác giả còn xây dựng một nhân vật khác với khí phách hiên ngang, lẫm liệt đó là Hồ Học. Ông cũng là một tướng sĩ của Nghĩa Hội, cái khí phách vừa ngang tàng, vừa bất khuất càng được thể hiện rõ nét khi ông bị đưa ra tra tấn. “Một tù nhân tên là Hồ Học, một chiến tướng lừng danh dù bị bắt bị trói chặt cánh khuỷu, khi đối mặt với viên án sát, đối mặt vói những tên lính tra trấn kèm theo dụng cụ của họ nhưng người anh hùng vẫn ung dung, bình tĩnh”. Ta có thể thấy được cuộc đối thoại của họ:
“Viên án sát cho giải tù nhân đến trước mặt. Hắn đập một tay xuống bàn, vừa để thị uy, vừa cốt để tụ trấn tĩnh và hỏi lớn
-Tên kia! Khai tên họ mi nghe!
Người bại tướng đứng im.
    Viên án sát lại đập bàn lần nữa:
-Tau hỏi, mi không nghe à?
Hồ Học đang đứng mím chặt môi, bỗng phá ra cười, để lộ bộ răng vàng lởm chởm:
Nghe chớ sao không nghe, nhưng ta phải tức cười. Tên ta thì còn ai mà mà không biết. Ông cứ tự hỏi ông là đủ .
-Thằng kia, không được vô lễ.
-Ta vô lễ? Mi lộn rồi. Ta là tướng của Hoàng đế, có chiếu chỉ, có sắc vàng, theo chủ ta là quan phụ đạo Nguyễn Đại Nhân tiễu trừ giặc cướp nước. Bọn bay chỉ chỉ là lũ theo làm đầy tớ cho giặc , không bi ta chặt đầu là may, còn gọi ai là vô  [7, tr.268]. Lời nói đó như của người đang xử án chứ không phải của kẻ bị xử án. Chất kiêu hùng đó còn được ông thể hiện qua việc ông bị tra tấn, bị đòn roi, bị đánh đến: “máu chảy ròng ròng” mà còn cất nên tiếng nói: “Ta đâu đã chết! Ta đang đếm thử bao nhiêu hèo” [7, tr.269]. Con người ấy, khi lòng ái quốc bị xúc phạm, bị xem như là “dục vọng của kẻ phiến loạn” thì cũng bật lên sức phản kháng quyết liệt: “Hồ Học đang ngồi bỗng nhảy chồm dậy. Mặt ông ta phừng phừng, thịt dưới má, dưới cằm rung động. Ông ta chỉ vào mặt viên đại tá, mắng lớn:
- Mi nói sai! Thằng mũi lõ nói sai! Mi và quân lính của mi rặc là tụi cướp nước. Còn ta đây, đường đường là tướng của Hoàng đế, được vua sai dẹp giặc, làm sao trộm cắp mà sánh với chủ nhà?” [7, tr.271]. Lời nói không chưa đủ, ông còn dùng hành động mong rửa được mối nhục bị xúc phạm, mối căm thù trong lòng, cho dù chỉ là phản kháng của một bại tướng. Nhưng như thế cũng đủ thấy rằng, cái chết không hề làm nao lòng những con người vốn thủy chung kiên định và giàu lòng tự hào dân tộc.
Bên cạnh những bậc đại tướng thì tác giả còn xây dựng những con người xả thân vì đại nghĩa cho dù họ là những người lính bình thường. Đó là những nhân vật như “tôi”, như Hiểu, Thiều. Đó chỉ là những người trong hàng ngũ binh lính, nhưng tinh thần anh dũng cũng không kém các bậc thủ lĩnh của mình. Với nhân vật Thiều, anh sãn sàng dành phần việc cho mình dù biết đó là con đường chết. Anh chạy thoát được nhưng vì tài liệu của nghĩa quân còn bỏ lại nên đã quay về nơi mà “tiếng đạn nổ dòn, tiếng la thét, tiếng nhà cháy, tiếng cột đổ, đất sạn bay tứ tung” đang nổ ra dữ dội. Và số phận của anh cũng nằm chung với những người “tử sĩ vô danh”. Còn đối với nhân vật Hiểu, dù “yếu đuối, gầy ốm và hay đau yếu” nhưng không vì thế mà anh không có tinh thần chiến đấu. Bên trong lớp vỏ tưởng như mong manh ấy cũng là một tinh thần thép, một sức mạnh phi thường mà khi cần thiết thì sãn sàng bộc phát, đó là lần anh cõng ông Phan trên lưng chạy băng rừng thoát khỏi sự truy quyét của địch. Đó còn là lần anh thẳng tay cầm dao chém túi bụi vào một người đồng đội vì hắn đã dám phản bội lại nghĩa quân với tiếng hét căm phẫn: “Đồ phản quốc! Mi dám nói việc đó trước mặt tao à?” [7, tr.254].
Với truyện Viên đội hầu, Nguyễn Văn Xuân đã tái hiện lại cuộc chiến giữ thành Hà Nội của tổng đốc Hoàng Diệu cùng với các tướng lĩnh của mình. Trong truyện, ta bắt gặp nhân vật chủ tướng chính là Tổng đốc Hoàng Diệu và nhân vật dưới trướng chính là viên đội hầu cận Tổng đốc. Cả hai nhân vật xuất hiện ở đầu truyện với mối quan hệ bề trên với cấp dưới, giữa chủ và tớ nhưng đến cuối truyện mối quan hệ đó đã thay đổi. Viên đội hầu vẫn một mực trung thành, kiên quyết đi theo chủ của mình dù đã bị đuổi đến ba lần: “Bẩm quan lớn, con không thể để quan lớn đi một mình trong giờ phút lâm nguy này. Con đã theo hầu hạ quan lớn từ mười năm nay…” [7, tr.291]. Và cho dù có bị chủ rút gươm đe dọa cũng không làm Viên đội hầu dừng bước: “Lần này, viên đội hầu không đi theo chủ nữa. Nhưng y cũng không quay lại, y đứng đó. Y đứng nguyên vẹn đó. Y nhìn chủ khuất lần về phía võ miếu. Nước mắt y làm nhòe hết cảnh vật giữa cơn sốt của chiến tranh đang diễn ra vào giai đoạn khủng khiếp nhất” [7; tr.291-292].
Đến cuối tác phẩm, mối quan hệ giữa hai hình tượng nhân vật Tổng đốc Hoàng Diệu và Viên đội hầu dường như có sự thay đổi. Cái chết của Viên đội hầu không chỉ thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với chủ mà còn thể hiện tinh thần của một con người, một dân tộc mất nước. Ở đây Viên đội hầu và cả quan Tổng đốc đều đau đớn trước sự thất bại của nghĩa quân, đều một lòng trung quân ái quốc, bất phục trước kẻ thù. Cả hai đều tìm đến cái chết để bảo vệ danh dự và phẩm chất của mình.
Với cảm quan lịch sử tư tưởng đúng đắn, Nguyễn Văn Xuân không chỉ thấy anh hùng mà còn thấy quần chúng, thấy hình ảnh chói sáng không kém của những anh hùng vô danh.
Trong truyện Về làng, ông Tú Bình- một tướng lĩnh nghĩa quân – bị xử chém ở làng quê, cả làng thương xót quý trọng người anh hùng đã vì nước phải rơi đầu “người trong gia đình xúm nhau đặt bàn, thắp hương đèn chờ sẵn. Và tất cả già trẻ cùng quỳ xuống lại ông khi ông đi qua bất chấp pháp luật, khiến bọn người sai áp cũng đâm ra lúng túng. Không ai cầm được nước mắt khi ông vẫn phương phi, vẫn trầm tĩnh đi dần từng bước vào cái chết”.
Rõ ràng, một ông Tú Bính mất đi, nhưng tinh thần quật cường bất khuất của ông đã thấm sâu vào tâm khảm của biết bao người sống.
Cũng tinh thần ấy, nhưng rất sôi nổi hào hứng, trong truyện Cái giỏ ta thấy cả làng quê Vĩnh Điện đã hè nhau giết được thằng lính Tây, dù biết rằng nhà cửa có thể bị tan nát, xóm thôn có thể bị triệt hạ. Truyện không nói về những con người phi thường, họ không phải là những tướng lĩnh, không có hành động kì dị nhưng họ cũng có sức mạnh phi thường đó chính là sức mạnh tập thể. Truyện phản ánh ý thức đấu tranh của một bộ phận nhân dân còn mang tính tự phát. Tuy vậy, họ ý thức được việc mình làm và sẽ mang lại lợi ích gì. Họ không hiện lên như một kẻ giết người dã man mà là để tiêu diệt những thế lực xấu xa: “Hay quá! Chắc chặt đầu thằng Tây quá. Cho nó hết đi đốt nhà, hiếp dâm, đụng ai bắn nấy!”[7, tr.319]. Mục đích của họ không phải vì hám danh lợi: “Cần chi chức đội trưởng. Cứ chặt cho được cái đầu này đã. Đêm nào tôi cũng mơ chặt được đầu Tây. Có bữa, tôi mơ chặt được hai cái, được đi thẳng vào doanh trại và được ông Hường thâu nhận” [7, tr.318]. Được vào hàng ngũ nghĩa binh, chiến đấu cùng nghĩa quân đó là ước vọng của bao người.
Tất cả những điều đó cho thấy những người trong hàng ngũ kháng chiến, từ trên xuống dưới đều một lòng, đều mang tinh thần “vì nghĩa diệt thân”. Họ sãn sàng hi sinh thân mình vì đại nghiệp.
2.2. Con người gắn bó với quê hương, đất nước
Là người con của vùng đất Quảng Nam, Nguyễn Văn Xuân là một người gắn bó với cảnh vật và con người nơi chôn nhau cắt rốn ấy. Tình cảm ấy đã thấm sâu vào từng trang viết của ông, thông qua những hình tượng nhân vật luôn hướng về cội nguồn xứ sở của mình. Điều đó được khẳng định mạnh mẽ ở những con người sắp ra đi mãi mãi. Tổng đốc Hoàng Diệu (trong truyện Viên đội hầu), trước khi chết đã chuẩn bị sẵn bức thư nhờ người mang về quê để người thân biết và đến đưa ông về với vùng đất Quảng Nam thân yêu. Ông chuẩn bị chu đáo đến mức tưởng chừng như việc ra đi của ông như đã biết trước và rất thanh thản, tưởng như không phải là đi vào cõi chết mà là sự hồi hương: “Ta đến đây chịu tội với các tiên liệt trước khi ta phải chết. Khuya hôm nay, ta đã viết sẵn hai phong thư bỏ vào trong cái hộp bằng thiếc như cái này. Phong kia, ta đã sai người đưa về Quảng Nam cho gia đình ta. Phong này ta để trong túi áo, nơi ngực ta. Chừng năm ba tháng nữa thế nào cũng có người ở làng Xuân Đài ra, đến tại võ miếu đây để lo việc rước di hài ta. Còn tuyệt nhiên, không được cho ai biết cả. Chôn ta thì chờ lúc nửa khuya, không cần tẩm liệm, chỉ cần quấn một chiếc chiếu là đủ. Cần nhất là không được tiết lộ mộ phần ta. Đây là món tiền ta cho vợ chồng ông để lo hậu sự cho ta. Khi người nhà ta tới, ta cũng có biểu sẽ thưởng cho ông một món tiền nữa. Phải hết sức nhớ lời ta dạy. Thôi, chào vợ chồng ông ở lại” [7, tr.292-293].
Nếu như khát vọng đó của Tổng đốc chỉ được thực hiện một cách thầm lặng thì đến với nhân vật ông Tú Bình (trong truyện Về làng), điều đó được thể hiện rất công khai và có phần trang trọng. Ông Tú Bình vốn rất được dân làng yêu mến và kính trọng: “Vốn ông là tay có tài học lỗi lạc, ông cũng là người mà tất cả dân làng đều xem như bậc cha mẹ. Ông ăn tiên chỉ và một lời ông phán ra có giá trị một chân lý không cần bàn cãi. Con người đó có cái tình máu mủ với dân làng cho nên “lá rụng về cội cũng là một điều tốt” [7, tr.311]. Dân làng đón tiếp ông về với những lễ nghi trang trọng, bởi vì họ cũng hiểu được tâm nguyện của ông: “Hình như ý ông muốn thấy lại quê hương lần cuối cùng” [7, tr.310]. Mối tình thắm thiết giữa kẻ đi, người ở càng trở nên đáng quý khi không khí đón tiếp cũng là buổi tiễn đưa làm cho không khí đó càng trở lên long trọng: “Các bô lão vái ông rồi dâng một chiếc áo rộng xanh. Ông Tú cảm động cầm lấy, mặc vào mình đi trước, các bô lão theo sau, cùng tiến vào đình làng. Ở đó, đèn đã thắp sẵn, khói hương ngào ngạt. Ông lẩm nhẩm khấn vái. Trong cái trang nghiêm của lễ nghi pha thêm cái u ám của tử khí, người xem kính cẩn một cách rờn rợn” [7, tr.312]. Chẳng những thế, con người trở về đây không phải với tâm thế của người phàm mà trở thành một vị thánh sống, hương hồn của quê hương, sông núi: “Người trong các gia đình xúm nhau đặt bàn, thắp hương đèn chờ sẵn. Và tất cả già trẻ cùng quỳ xuống lạy ông khi ông đi qua, bất chấp luật pháp nào, khiến bọn người sai áp cũng đâm ra chẳng biết họ đang hộ tống vị thần nào. Không ai cầm được nước mắt khi thấy ông vẫn phương phi, vẫn trầm tĩnh đi dần từng bước vào cõi chết” [7, tr.313]. Thái độ của mọi người với ông Tú thì như thế, còn ông Tú thì đáp lại tình cảm ấy cũng không kém phần thiết tha: “Tôi vì việc nước mà xả thân thì chẳng có gì đáng ân hận. Tôi chỉ đau đớn là không thể làm hơn được. Tôi cám ơn các cụ đã lo cho chút thân tàn này không đến nỗi bơ vơ. Bây giờ, tôi xin vĩnh quyết các cụ. Xin các cụ ở lại thay tôi mà chăn dắt con em để cho làng ta được mãi tiếng thuần lương. Tôi gởi lời cầu chúc cả dân làng” [7, tr.314]. Như vậy, người ra đi luôn nhớ về quê hương xứ sở và những con người giàu tình nghĩa. Nó xứng đáng là nơi yên nghỉ mãi mãi cho những hương hồn đã ra đi vì những lợi ích chung của đồng bào dân tộc.
2.3. Thể hiện nỗi đau trước những mất mát, hy sinh
Có thể nói tập truyện Hương Máu nói nhiều đến cái chết. Kết thúc mỗi truyện là cái chết của một người hay nhiều người. Có cái chết được miêu tả rất chi tiết, có cái chết chỉ được nhắc qua. Có cái chết là do hình phạt, có cái chết là sự tự nguyện. Ở đây ta thấy sự tiếc thương của tác giả không được thể hiện trực tiếp trong tác phẩm mà nó được thể hiện thông qua việc miêu tả sự đau xót của những người trong truyện. Chẳng hạn, trong truyện Viên đội hầu, khi chứng kiến hai cái chết của một đôi chủ - tớ, ông thủ từ không khỏi bàng hoàng, thương tiếc. Hay ở truyện Cái giỏ, cái chết của Bốn gây bất ngờ và đau xót khôn nguôi trong lòng người con gái (không phải là vợ của Bốn): “Chị Mững không nói, chỉ thút thít khóc và nhìn vào cây hương lấp loáng sau một bụi cây nhỏ. Tự nhiên ai cũng nhìn vào, một cái bát, một cái đĩa trắng phau mà họ đoán là cơm và trứng gà rồi không ai hỏi gì nữa” [7, tr.335]. Họ không khóc, không kêu than không có nghĩa là họ hờ hững với cái chết của Bốn, tình cảm của họ được bộc lộ qua hành động hơn là lời nói. Trong số đó, chị Mững bộc lộ niềm đau xót rất trực tiếp: “Tiếng khóc của chị Mững lớn hơn và có âm vọng ma quái” [7, tr.336]. Đó là cách thể hiện tình cảm của một người phụ nữ đã thầm thương trộm nhớ Bốn. Nỗi đau thương tuy không được miêu tả chi tiết nhưng cũng có thể thấy được nó nặng trĩu và ngày càng tăng dần theo tiếng vang của tiếng khóc.
Trong Chiếc cáng điều, cái chết của ông Tán “gây sốc” cho ông Học: “Ông không kịp buông rèm, thốt lên tiếng kêu thất thanh và ngã gục vào trong vòng tay run rẩy của chàng nho sinh, con trai ông đã đứng trực sẵn phía sau từ lúc nào” [7, tr.345]. Ông Học vốn rất ngưỡng mộ ông Tán, khi biết ông Tán đi về gặp ông Hường như là đi vào con đường chết, ông rất lo lắng. Nhưng khi thấy chiếc cáng điều của ông Tán trở về thì ông Học mừng rỡ vô cùng, ngỡ như ông Tán được bình an. Nhưng hóa ra ông Tán chỉ còn là một cái xác không hồn. Nỗi thất kinh của ông là nỗi thất vọng, đau xót cho một hiền tài, can trung.
Có thể nói nỗi đau ấy được khắc họa rõ nét nhất trong truyện Rồi máu lên hương. Người xem như được chứng kiến “một thiên tình sử bi thảm”, chứ không phải là “một trang sử oanh liệt của đất nước”. Mấy ai cầm lòng cho được khi chứng kiến cảnh tượng: “Một thiếu phụ mặc toàn tang chế. Nàng vẹt quân lính, líu ríu chạy trên đôi chân bé nhỏ, thẳng một mạch đến chỗ chiếc đầu lâu vừa rơi xuống trên đống cỏ. Nàng quỳ xuống, nâng nó lên trên đôi tay trắng bạch. Nàng áp cái đầu đầy máu me vào ngực mình, như không một vật nào cao quý linh thiêng, yêu dấu bằng, như thể nó chính từ bộ phận máu xương từ cơ thể nàng bị đứt ra. Nàng rú lên, thét lên thê thảm đễn nỗi cái bọn đầu trâu mặt ngựa đứng cạnh đó cũng phải tủi lòng…Trước khi người ta lôi được nàng đi, nàng đã xõa hết mớ tóc đen như mun để chùi, để thấm, để bết hết cái dòng máu ít ỏi đã từ cơ thể chồng nàng đổ ra trên áng cỏ còn lóng lánh sương mai” [7, tr.357-358]. Đó là những gì nàng có thể làm để giữ được “di vật” cuối cùng của chồng mình. Niềm đau thương ấy khiến những người chứng kiến phải chạnh lòng: “Không, tôi không thể xem được nữa, tôi đến để dự kiến một trang sử oanh liệt của đất nước chớ không chờ để dự chứng kiến một thiên tình sử bi thảm đến thế” [7, tr.358]. Nàng xem đó như là một báu vật, nàng trân trọng hơn cả bản thân nàng. Nỗi đau ấy thấm dần vào người cha khi chứng kiến con gái mình từng ngày đang bước vào cái chết mà không thể làm gì được. Ông cảm thấy mình bất lực vì không  thể cứu được con. Nhưng ông cũng thừa biết thà con ông mất đi chứ nhất quyết không lìa xa “dòng máu kỷ vật” đã quyện vào mái tóc của nàng: “Bao giờ nhìn lên tóc con, trái tim ông cũng như thắt lại. Mùi hôi nồng nồng chính từ đó phát ra, cái mùi của chất máu bị bết trong tóc quyện lấy mồ hôi đã ba tháng trời mà con bệnh quyết giữ lấy khư khư, cùng ăn cùng ngủ chung với nó, luôn luôn hít thở nó như kẻ nghiện thèm sống với khói phù dung” [7, tr.361]. Đó là thứ duy nhất có thể khiến nàng sống và cũng chính vì nó nàng sẵn sàng chết để bảo vệ nó, nàng gắn bó với nó như máu xương của mình, thậm chí cả lúc sắp ra đi: “Thưa cha, con thật đắc tội với cha. Con chỉ còn biết lạy cha, xin cha tha thứ cho con. Còn việc con đối với anh Phiên con…Còn đầu tóc con, con xin cha…cứ để nguyên như thế. Máu của anh con…sống thì con giữ, chết…con mang theo…nàng mệt ngất đi, nhưng vẫn gắng gượng sờ mó được những sợi tóc đen dày cộm lên từng chỗ, những dấu vết sống đau thương thê thảm nhất của chồng nàng. Tóc trải một lượt trên bộ ngực hom hem, và nàng cứ lấy ngón tay mân mê nó, môi hé một nụ cười héo hắt. Nàng chết đi tay vẫn để trên đống tóc như thể sợ người ta sẽ nhẫn tâm đem nó đi để gội rửa cái chất máu lên hương, chất máu đã làm cho nàng gần gũi với chống nàng lúc sống và rồi đây cả khi vĩnh viễn rời bỏ cõi đời…” [7, tr.362]. Đó là lòng chung thủy, sắt son, quyết gắn bó với chồng đến hơi thở cuối cùng. Như vậy, xây dựng nỗi đau của nhân vật cũng chính là thể hiện nỗi đau của tác giả.
2.4. Thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng
Trong tập truyện Hương Máu, nhà văn Nguyễn Văn Xuân đã nói nhiều đến cái chết. Nhưng cái chết ở đây không phải là bi quan mà nó gợi lên một âm hưởng bi tráng cho tác phẩm. Con người với tư cách bị án tử không hề nao núng, run sợ trước quân thù, trước cái chết, mà trái lại chính trên con đường đến cái chết càng khẳng định khí khái anh hùng của họ. Người tử tù hiện lên với tư thế của người chiến thắng: “….một nhà nho tuấn tú, phương phi, trắng trẻo. Nhà nho đó không nhìn một ai, không một chút chú ý đến mọi động tĩnh chung quanh của dân chúng vốn quen ồn ào giờ bỗng trở nên im lặng, kính cẩn và nhiều kẻ khóe mắt rưng rưng… Ông đang lo nghĩ những vần thơ tuyệt bút và muôn vạn con mắt đều trố nhìn vào ngọn bút lông đứng sựng và thoăn thoắt chạy trên tờ giấy. Điều này khiến người ta lầm tưởng mình đang thảo hịch giữa buổi tinh sương chứ không phải là thơ tuyệt mệnh trong khi đến pháp trường…” [7, tr.277]. Phong thái ung dung ấy tạo cho không khí truyện trở nên lạc quan: “Cái chết không còn có tính cách bị chặt đầu một cách thảm hại mà cốt đạt cho được bốn chữ “thung dung tựu nghĩa” để gây xúc động bất tuyệt trong lòng kẻ hậu sinh, cốt truyện tiếp một niềm tin tưởng không bao giờ dứt” [7, tr.277]. Ở đây cái chết như một lời khẳng định ý chí của mình, đồng thời cũng là một lời cự tuyệt dứt khoát với thái độ đi ngược lại với truyền thống yêu nước của dân tộc. Không có một hành động nào quyết liệt hơn là dùng cái chết, chỉ có cái chết mới có thể chứng tỏ và bảo vệ được sự trung thành với lý tưởng của mình. Đồng thời đó là cách lựa chọn cho những người “thà chết vinh còn hơn sống nhục”, không thể chịu được cảnh nước mất nhà tan, không thể chứng kiến cảnh thắng lợi của quân cướp nước. Thà hòa theo hồn thiêng sông núi hơn là sống chung với quân cướp nước bạo tàn. Đó là tinh thần trung nghĩa tiết liệt truyền thống của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay.
Mỗi con người đều mang trong mình bầu nhiệt huyết trở thành người cống hiến cho lợi ích chung của dân tộc. Bầu nhiệt huyết ấy không nguội lạnh cho dù phải chết đi, thậm chí đến khi chết vẫn mang tinh thần chiến đấu không buông xuôi. Điều đó được thể hiện rõ qua hình ảnh nhân vật Bốn trong truyện Cái giỏ, anh chết đi nhưng tay vẫn không rời khỏi cái giỏ chứa đầu giặc: “Lủng lẳng nơi cánh tay mặt co gấp lại, chính là cái giỏ tre ở bên trên vẫn còn nguyên nải chuối lùn. Cánh tay co quắp, bắp thị đè lên, ép chặt cái quai xách tưởng như không bao giờ rời ra, không rời trong lúc sống, không rời cả khi chiến đấu với tử thần” [7, tr.336]. Và bầu nhiệt huyết ấy chính là mạch chảy ngầm của cả tập truyện.
Tác giả đã thành công trong việc tạo bầu không khí bi tráng cho tác phẩm, đồng thời tạo cách kết thúc có khả năng động viên cao có giá trị biểu tượng và biểu cảm rõ rệt. Sau cái chết này thì hình ảnh khác hiện ra với viễn cảnh khác lạc quan hơn. Hình ảnh cuối truyện Hương máu cho ta thấy rõ điều đó: “…hàng trăm kỵ sĩ ruổi rong khắp xóm làng tỉnh Quảng Nam mang theo những lá đại kỳ viết bằng chữ lớn, báo tin thủ lĩnh phiến loạn đã chết. Nhưng đột nhiên những kỵ sĩ áo màu kia biến mất nhường chỗ cho những người gầy gò, xanh xao. Họ chạy qua mặt tôi, lớn tiếng gọi tôi và vẫy tay. Tôi sửng sốt chạy lại thì thấy toàn những bộ mặt rất quen mà tôi đã gặp suốt ba năm trời ở núi rừng. Nhưng khi họ trưng thẳng lá cờ, tôi không thấy hung tin mà chỉ thấy một chữ “Tiệp” rất lớn. Rồi tôi lại thấy đoàn kỵ sĩ áo quần rực rỡ hiện ra và tất cả cùng đua nhau chạy về phía sương mù” [7, tr.278]. Chữ “Tiệp” ấy gợi cho ta nhớ đến câu thơ trong bài thơ Báo tiệp của Hồ Chí Minh: “Chính thị Liên khu báo tiệp thì” (Ấy tin thắng trận liên khu báo về - Huy Cận dịch) [2, tr.181]. Tuy nhiên, nếu như ở Báo tiệp, tin thắng trận là hiện thực thì “Tiệp” ở Hương máu mới chỉ xuất hiện trong giấc mơ. Điều đó mang ý nghĩa tượng trưng rõ rệt, thất bại chỉ là tạm thời, tương lai sẽ là chiến thắng. Ấy là niềm tin vào một tương lai tươi sáng, sự nghiệp đấu tranh của dân tộc sẽ giành được thắng lợi.
Như vậy chúng ta thấy kết thúc mỗi tác phẩm đều là cái chết, nhưng đó chỉ là cái chết “vì nghĩa quên thân”. Chính những cái chết lẫm liệt của những người anh hùng chiến bại ấy đã đi vào cõi vĩnh hằng, bất tử cùng dân tộc. Vì vậy, nó không gợi lên sự yếu đuối, dao động hay run sợ mà ngược lại, người đọc như có được sự động viên, thấy được sự hy sinh to lớn của ông cha ta.
Nhìn chung về mặt nội dung, tác phẩm của Nguyễn Văn Xuân đã thể hiện được không khí của một thời chiến đấu anh dũng của những người anh hùng trong quá khứ của dân tộc. Đó là tiếng nói góp phần khẳng định tinh thần của dòng văn học yêu nước cách mạng của vùng đất thành thị miền Nam lúc bấy giờ.
       2.5.Lên án bọn xâm lược và tay sai
            Đối lập với  tinh thần bất khuất, kiên quyết chống ngoại xâm, đấu tranh cho độc lập dân tộc tác giả đã lên án bọn tay sai, bọn bán nước cầu vinh. Trong tuyện ngắn Hương máu ta thấy một tên tay sai đắc lực của thực dân Pháp
 “ Người Pháp dùng Nguyễn Thân vừa là hổ tướng, vừa là mưu thần, vừa là chó săn đắc lực và nguy hiểm”. Cách kể của nhà văn đã thể hiện một sự châm biếm sâu sắc. đồng thời tác giả đã thể hiện rõ thái độ của mình đối với những kẻ làm tay sai.
“ Việc đầu tiên của Nguyễn Thân là dùng ngay những kẻ vốn có ít nhiều liên quan tới Nghĩa Hội đã rời bỏ hàng ngũ. Những người này có kinh nghiệm chiến đấu, có tính thích hoạt động mà lại tham địa vị. Ở quảng Nam y dùng tú tài Nguyễn… là một con chó săn khác cũng mê hát bộ và cũng nguy hiểm như y.  Hai tên phản quốc này đóng ở hai cứ điểm: Nguyễn Thân dẫn lính tập Quãng Ngãi ra đóng ở Tam Kì và Tú Nguyễn .. theo quân triều đình đóng ở Phủ Điện. … họ đổ rất nhiều tiền ra để thuê những tên do thám, mua chuộc bọn thân hào, bọn nhà giàu..”. Ở một truyện khác là Viên đội hầu, Nguyễn Văn Xuân cũng đã lên án bọn phản quốc. tên phản quốc ở đây là Tôn Thất Bá, hắn là án sát đông thời cũng là một tôn thất nhà Nguyễn “ tôn thất nhà Nguyễn mà lại rứa à?”(lời Hoàng Diệu trong truyện Viên đội hầu). Đặt trong hoàn cảnh của xã hội thành thị miền Nam lúc bấy giờ chúng ta có thể thấy tác giả đã phê phán, tố cáo bóng gió đối với chính  quyền Sài Gòn từ kẻ lãnh đạo nhà nước của chế độ cũ cho đến những tên tay sai, hoặc những tên bồi bút đắc lưc của đế quốc Mỹ như: Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sĩ, Mai Thảo,,,
            Sau những lần đem quân đổ bộ trực tiếp vào miền Nam Việt Nam, đế quốc mỹ đã chịu nhiều những tổn thất lớn. Vì thế mà bọn chúng thực hiện một chính sách cai trị vô cùng  tàn bạo và thâm độc đó chính là chính sách “ người Việt trị người Việt” . Vì thế mà có thể nói rằng trong Hương máu, nhà văn đã lên án chính sach ấy bằng việc kể lại thực dân Pháp dùng Nguyễn Thân để đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân
Như vậy,tác giả đã nhất quán về tư tưởng, thái độ chính trị. Lòng căm ghét thế lực cướp nước và bán nước, khát vọng đấu tranh cho một đất nước hòa bình, dân chủ, thống nhất, là nền tảng tư tưởng tình cảm của các tác phẩm. nhà văn trực tiếp đề cập đến thực trạng xã hội miền Nam, hoặc thông qua cách nói bóng gió xa xôi, đã gợi cho người đọc những vấn đề nóng bỏng của dân tộc và thời đại.

3.      Kết luận
Sự hình thành và phát triển của văn học yêu nước thành thị miền Nam nói chung và đóng góp của Nguyên Văn Xuân nói riêng đã mang lại những ý nghĩa lớn. Đó là sự tiếp nối truyền thống, khẳng định tư tưởng yêu nước, tinh thần tự cường dân tộc luôn là nguồn mạch chính của văn học Việt Nam. Truyền thống này phát khởi từ ngàn năm trước, vận động mạnh mẽ trong những lúc vận mệnh dân tộc như nghìn cân treo sợi tóc. Trong cuộc đối đầu lịch sử này với chủ nghĩa đế quốc Mỹ, văn học yêu nước lại có tiếng nói dõng dạc đường hoàng, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn lao của cuộc chiến tranh nhân dân.
Thời gian qua đi, đến nay chúng ta có căn cứ để nhận xét : khuynh hướng văn học này không chỉ có giá trị phục vụ kịp thời mà không ít tác phẩm thực sự có giá trị lâu dài, chịu đựng được sự thử thách của thời gian. Giá trị của tác phẩm được cấu thành bởi tư tưởng yêu nước sâu sắc và chất lượng nghệ thuật khá cao của nó. Những tác phẩm của Nguyễn Văn Xuân mà tiêu biểu là tập Hương máu sẽ góp phần làm giàu cho kho tàng văn học dân tộc.




TÀI LIỆU THAM KHẢO
…….˜.…….

1.      Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi,Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội 1999.
2.      Hồ Chí Minh, Nhật kí trong tù,Nxb Đồng Nai 2001.
3.      Trần Đình Sử,Giáo trình dẫn luận thi pháp học, in tại xí nghiệp in Chuyên dùng Thừa Thiên Huế, 2001.
4.      Trần Hữu Tá, Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb TP Hồ Chí Minh 2000.
5.      Trần Hữu Tá, Giáo trình văn học thành thị Miền Nam 1954 – 1975.
6. Hoàng Trung Thông (chủ biên), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1979.
7.      Nguyễn Văn Xuân, Tuyển tập Nguyễn Văn Xuân, Nxb Đà Nẵng, 2002.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét