Rồi
hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục
đùn đùn tán rợp gương
Thạch
lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng
liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao
chợ cá làng ngư phủ
Dắng
dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có
Ngu cầm đàn một tiếng
Dân
giàu đủ khắp đòi phương."
Trong bức tranh đậm màu,
nền trời chiều ráng đỏ, một ngôi lầu vắng lặng, cây hoè cổ thụ ngoài sân tán
xanh thẫm, che rợp, bên hiên nhà cây thạch lựu sắc đỏ. Vài ba chú ve trên các
cành cây. Ao sen hồng và xa xa là làng chài đang họp chợ. Có một người ngồi
trên lầu trâm ngâm.
Xem tranh, trước hết ta
thấy một tư thế của con nguời ngồi đó. Câu mở đầu “hóng mát” - ngoạn cảnh nhàn
nhã, thảnh thơi.
Nên nhớ, đây là bức tranh
thơ của vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một thời, từng “đau lòng nhức
óc” vì vận nước từng cùng Lê Lợi “dựng cầu trúc ngọn cờ phấp phới”, và sau này
sắm vai ẩn sĩ mà tấm lòng vì dân nước không lúc nào yên “Đêm ngày cuồn cuộn
nước triều dâng”. Đặt trong nỗi truân chuyên của cuộc đời Nguyễn Trãi, mới thấy
quí cái giây phút ngắn ngủi hiếm hoi này, mới thấy cái tư thế ung dung thưởng
ngoạn kia là sự hưởng thụ chân chính. Sau tư thế ấy, thấy cả cái không khí yên
bình của cả một làng quê, đất nước vừa qua cơn binh lửa.
Con người này có ánh mắt
tinh tế, say mê. Người ngắm cảnh có đôi mắt rất sành : 3 loại cây, 3 dáng vẻ,
không trùng lặp. Tả cây, mà lộ ra khuôn mặt của mùa hè. Cây hoè : tán xanh xum
xuê, toả rộng - sức sống vươn cao. Thạch lựu : sắc đỏ - rực rỡ của tố chất khoẻ
mạnh. Sen hồng : đậm hương - tâm hồn nồng hậu, thanh cao. Ba loại cây, ba dáng
vẻ, ba màu sắc nữa (xanh, đỏ, hồng) đều có hồn. Ngôn ngữ của thơ thay cho chất
liệu màu của họa là lời nói sống động của đời thường. Chữ “đùn đùn” khiến ta
cảm nhận được sự sống đang nảy nở mạnh mẽ, trông thấy được bằng mắt thường. Chữ
“phun” còn lạ hơn. Không tả hoa đỏ, mà cảm nhận cây lựu đang phun, đang tuôn ra
sắc đỏ. Sen hồng cố đậm hương. Con ve kia cũng gắng hết sức trong những tiếng
kêu cuối cùng. Chợ ở làng chài đang náo nhiệt nên vọng xa lao xao... Chỉ là Bức
tranh phong cảnh ư ? Không phải ! Đấy là Bức tranh đời. Ở đó tạo vật và con
người đều dang sống hết sức mình, sống rất nhiệt tâm, băng mình trong trường
tranh đấu sống.
Ta bất ngờ nhận ra điều
kì lạ. Con người hoạ sĩ trong thi nhân Nguyễn Trãi thế kỉ XV ở Việt Nam có gì
rất gần gũi đại danh hoạ Hà Lan thế kỉ XIX, Vanh-xăng-Van-gốc. Không phải ở
những sắc màu được sử dụng, mà ở cách diễn tả nó. Van-gốc vẽ đồng lúa ta cứ ngỡ
cánh đồng bốc cháy. Hàng cây bên đường cũng quằn quại vệt lửa. Van-gốc đốt cháy
mình trong tranh. Nguyễn Trãi đốt cháy mình trong thơ. Chữ “đùn đùn”, “phun”,
"tiễn", "lao xao", "dắng dỏi" là lửa sống rừng
rực trong lòng Ức Trai mặc cho do thời thế ông đang phải lui về quy ẩn
"Rồi, hóng mát thuở ngày trường".
Trong bức tranh này,
thính giác nhậy bén đã giúp Nguyễn Trãi “vẽ” cảnh bằng nhạc. Xa xa, chợ cá
không rõ hình, song âm thanh “lao sao” chở hồn đến cho người đọc cái rộn ràng
nhộn nhịp, náo nhiệt của cuộc sống thanh bình. Nếu “lao sao” là khúc hoà tấu
của đời sống dân sinh, thì “dắng dỏi cầm ve” tấu lên âm thanh của cây đàn độc
huyền, ngân lên thiết tha cuối chiều, vấn vương nét quí tộc, lầu cao đơn độc.
Hai phong điệu dân dã và quí tộc hoà hợp, bởi chất keo dính của đời thường, đậm
đà hơi thở sống.
Cho nên vẽ bức tranh này
đâu chỉ là chuyện của giác quan chuyên nghiệp họa sĩ hay thi sĩ mà là năng lực,
phẩm chất của tâm hồn - tâm hồn tinh tế, đằm thắm của một con người hết mực yêu
đời, say mê cuộc sống.
Bức tranh Cảnh ngày hè có
một lời bình - một suy ngẫm đứng riêng, độc lập.
Dễ có
Ngu cầm đàn một tiếng
Dân
giàu đủ khắp đòi phương
Mạch thơ từ hướng ngoại
sang hướng nội. Từ miêu tả sang biểu cảm, khách thể sang chủ thể. Nguyễn Trãi
đã trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mình trong hai câu thơ kết. Ấy là một giấc mơ, và
cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ bật ra thành lời.
Giấc mơ, đó là giấc mơ
Nghiêu Thuấn. Giấc mơ ngàn đời của những con người Phương Đông sống trong thời
trung đại. Mong sao có một bậc vua hiền để được yên ổn ấm no hạnh phúc. Trước
hơn bốn trăm năm, thời Tiền Lê, Pháp Thuận đã phát biểu "Vận nước như mây
cuốn / Trời Nam mở thái bình / Vô vi trên điện các / Xứ xứ dứt đao binh".
Vận nước có rối ren thế nào cũng mong hai chữ thái bình, nhà vua đừng làm điều
gì nhiễu nhương thì khắp nơi đều hết nạn binh đao. Sau mấy mươi năm, vị vua
hiền minh Lê Thánh Tông cố sức mình cũng chỉ để thỏa lòng mong muốn :
Nhà nam nhà bắc đều có
mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc
thái bình.
Bây giờ đây, ưu tư thế
cuộc, nhìn đời - từ cỏ cây, vạn vật đến sinh linh vui sống như thế, Nguyễn Trãi
lại khắc khoải khát vọng muôn năm này. Mong trị quốc, bình thiên hạ sao cho dân
giàu nước mạnh là giấc mơ của một bậc đại nhân.
Nếu giấc mơ kia là của
bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc đại trí. Đó là tư
tưởng “thân dân” (dĩ dân vi bản) từng được vạch rõ trong Bình Ngô Đại Cáo -
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân".
Đó là tư tưởng lớn. Với
Nguyễn Trãi, tư tưởng ấy từng sôi sục trong hành động, khắc khoải trong tâm
tưởng, rát bỏng trong thi ca. Cả bài thơ 8 chữ, đến tận dòng cuối cùng, chữ
“dân” mới bật ra, song chính là cái nền tư tưởng, tình cảm của tác giả, cái hồn
của bài thơ. Là sợi chỉ dỏ xâu chuỗi cả 8 câu thơ lại.
Cảnh ngày hè (Gương báu
răn mình số 43) không định giáo huấn chung. Trước đời sống đang dâng trào, yên
lành thế, Nguyễn Trãi tự răn mình, phải làm sao cho cuộc sống này trở thành mãi
mãi và chỉ khắc khoải một nỗi "tiên ưu" ấy mà thôi.
(sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét