Bản sắc văn hóa Tây Nguyên qua sử thi Đam San
Với khối lượng đồ sộ lên
đến hàng trăm, sử thi Tây Nguyên là "bộ bách khoa thư" khổng lồ hiếm
có về thời cổ của các dân tộc Tây Nguyên nước ta. Người Ấn Độ nói: "Cái gì
không có trong hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana thì không thể tìm thấy bất
kì ở đâu trên đất nước Ấn Độ", còn chúng ta cũng có thể tự hào mà nói:
"Cái gì không có trong sử thi Tây Nguyên thì không thể tìm thấy trên đất
Tây Nguyên". Nếu như Iliat, Odixe- những tác phẩm anh hùng ca vĩ đại của Hi
Lạp ca ngợi lí tưởng vinh quang và chiến trận thì những anh hùng ca Tây Nguyên
lại hướng về lí tưởng đấu tranh chống lại những tập tục cũ, lạc hậu, chống lại
thần quyền và các thế lực áp bức bóc lột vừa nảy nở trong cuộc sống của bộ tộc.
Nhưng trên hết, ở tác phẩm sử thi vẫn là sự hiện diện của những con người,
những nhân vật cá tính và bản lĩnh sống trong mỗi trang giấy, qua hơi thở cuộc
sống, qua lời kể và tiếng cồng chiêng dậy núi đồi...Nói cách khác, qua sử thi,
người đọc hiện đại có thể tìm thấy bản sắc văn hóa của các tộc người Tây
Nguyên. Chương trình sách giáo khoa phổ thông Ngữ văn 10 trích dẫn "Chiến
thắng Mtao Mxây" trong sử thi nổi tiếng Đam San. Để có thể hiểu hết những
giá trị của tác phẩm, nhất định phải nắm được những đặc trưng văn hóa ở nơi
đây. Bản sắc truyền thống của người Tây Nguyên đã đi vào những trang sử thi
sống động của một thời kì lịch sử xa xưa của dân tộc tồn tại trong nếp ăn ở
sinh hoạt hàng ngày của họ. Đó là những tục lệ, lễ nghi không thể thiếu, là nét
văn hóa khá độc đáo của đồng bào Tây Nguyên. Những tác phẩm văn học dân gian
như sử thi là kho tàng quý giá lưu trữ lại suốt quá trình lịch sử đồng bào. Tìm
kiếm trong các sử thi, anh hùng ca có thể nhận biết được một số tập tục, lễ
nghi, văn hóa ứng xử, sinh hoạt...
Tục nối dây- chuê nuê của người Tây Nguyên
Đây là một tập tục đã tồn tại từ lâu đời của người Tây Nguyên. Khi người vợ hoặc chồng chết đi thì người còn lại phải lấy người trong dòng họ để tiếp tục cuộc sống vợ chồng, với quan niệm cho rằng có thực hiện đúng "chuê nuê" mới giữ trọn dòng giống của gia đình, của dân tộc, con người mới không bị lẻ đôi. Chẳng hạn như trong khan Đam San của người Êđê, tục lệ này thể hiện rất rõ. Khi bà của H'Nhí chết thì H'Nhí phải là người "nối dây" lấy ông của mình làm chồng, hoặc khi Đam San chết và đầu thai vào người chị H'Âng sinh ra Đam San cháu thì H'Nhí và H'Bhí phải tiếp tục nối dây với Đam San cháu.
Tục nối dây- chuê nuê của người Tây Nguyên
Đây là một tập tục đã tồn tại từ lâu đời của người Tây Nguyên. Khi người vợ hoặc chồng chết đi thì người còn lại phải lấy người trong dòng họ để tiếp tục cuộc sống vợ chồng, với quan niệm cho rằng có thực hiện đúng "chuê nuê" mới giữ trọn dòng giống của gia đình, của dân tộc, con người mới không bị lẻ đôi. Chẳng hạn như trong khan Đam San của người Êđê, tục lệ này thể hiện rất rõ. Khi bà của H'Nhí chết thì H'Nhí phải là người "nối dây" lấy ông của mình làm chồng, hoặc khi Đam San chết và đầu thai vào người chị H'Âng sinh ra Đam San cháu thì H'Nhí và H'Bhí phải tiếp tục nối dây với Đam San cháu.
Tục cột rượu treo chiêng
Phong tục này thể hiện tính hiếu khách của người Tây Nguyên và cũng là lễ chào
đón một sự kiện trọng đại nào đó. Trong khan Đam San, tục cột rượu được thể
hiện ở việc gia đình H'Nhí chuẩn bị cưới chồng cho chị em nhà H'Nhí và H'Bhí.
Cột rượu còn là một tục lệ mà người Tây Nguyên dùng để cầu may cho khách, hoặc
người thân trong gia đình. Đây là một hình thức sinh hoạt không thể thiếu trong
nếp sống văn hóa hàng ngày.
Chiêng là một loại nhạc cụ quí giá có ý nghĩa trong đời sống tinh thần. Nó
chứng minh sự giàu có của một gia đình. Nhà nào có nhiều chiêng, nhiều ché tức,
ché tang thì được coi là giàu mạnh. Ngoài Đam San, trong các sử thi khác như
Xing Nhã, Đăm Yông, hay Y Ban...hình ảnh của ché rượu và tiếng chiêng dường như
tôn thêm vẻ đẹp văn hóa, cho cái riêng của con người Tây Nguyên.
Tiếng chiêng được diễn
tấu bằng cách gõ chiếc dùi bọc bằng cao su, hoặc dùi gỗ mềm không bọc để tạo ra
tiếng chiêng khác nhau. Trong khan Đam San có diễn tả âm thanh này một cách
sống động, tựa hồ như đưa người ta quay về với một thời cổ đại oai hùng mang
sắc màu thần thoại: "tiếng chiêng lan ra khắp xứ ,... tiếng chiêng luồn
qua sàn nhà, lan xuống dưới đất !..." và: "tiếng chiêng vượt qua mái
nhà vọng lên trời...". Phải chăng, chính những tục lệ văn hóa độc đáo này
mà sử thi Tây Nguyên trở nên có ý nghĩa về cả lịch sử lẫn một nền văn học nghệ
thuật còn nhiều bí ẩn cần khám phá? Và phải chăng, chàng trai Đam San bỗng trở thành
một người anh hùng đầy bản lĩnh bởi tiếng chiêng vang dậy núi rừng...
Tục lệ cưới hỏi và văn
hóa ứng xử
Theo tập tục này thì đối với họ người con gái là quý nhất, là người nắm giữ vai trò chủ chốt trong gia đình. Người M Nông có câu hát: "Người vợ giữ nhà, thực hiện những việc lớn lao nguy hiểm...của cải trong nhà do người phụ nữ trông coi. Người không có vợ như nhà không có nóc, như gà không có chuồng. Vậy con gái là quý nhất"...Có lẽ vì vậy mà trong hôn nhân người con gái sẽ làm chủ đối với việc cưới hỏi (hoặc nói theo cách của người đồng bào là bắt rể), khác hoàn toàn phong tục của người Kinh.
Theo tập tục này thì đối với họ người con gái là quý nhất, là người nắm giữ vai trò chủ chốt trong gia đình. Người M Nông có câu hát: "Người vợ giữ nhà, thực hiện những việc lớn lao nguy hiểm...của cải trong nhà do người phụ nữ trông coi. Người không có vợ như nhà không có nóc, như gà không có chuồng. Vậy con gái là quý nhất"...Có lẽ vì vậy mà trong hôn nhân người con gái sẽ làm chủ đối với việc cưới hỏi (hoặc nói theo cách của người đồng bào là bắt rể), khác hoàn toàn phong tục của người Kinh.
Tìm hiểu sử thi
Đam San cũng thấy xuất hiện hình thức cưới hỏi này. Chẳng hạn như cách nói đối
đáp giữa nhà trai, nhà gái với thái độ khiêm nhường khi chuẩn bị cho việc hôn
nhân. Trong chi tiết H'Âng chị của Đam San mời khách ăn cơm bằng một cách nói,
tự chê cơm rượu của nhà mình: "Mời các anh ăn cơm cho. Cơm tôi có mùi mốc,
nước tôi có mùi hôi, thịt gà diều bỏ rơi, và người nấu là một con vẹt, thật là
một con vẹt diều tha..." và ngược lại khách cũng chỉ ăn một ít rồi nói:
"vì ở nhà chị nên tôi mới ăn nhiều như vậy. Còn ở nhà tôi, một quả dưa
chuột tôi ăn đến ba năm. Một quả dưa hấu tôi ăn đến ba đời"...Nghệ thuật
phóng đại trở thành khúc biến tấu độc đáo nhất để người Tây Nguyên thể hiện đời
sống văn hóa của mình, qua những pho sử thi mang bề dày lịch sử. Hoặc chỉ đơn
giản trong những lời đối đáp trên, nghệ thuật này khiến người ta hiểu rằng:
phải chăng đó là sự thử thách tình cảm chân thành bằng cách tự mình "bôi
nhọ" vào mặt mình? Sau khi khách đã giữ lễ một cách khiêm tốn thì bấy giờ
gia chủ mới thết đãi khách một bữa cơm thịnh soạn bằng rượu quý " đen
thắm, thứ rượu chôn dưới đất đã tám năm..." và cuối cùng mới tiến hành lễ
cột rượu - treo chiêng của gia chủ nhằm bày tỏ lòng hiếu khách. Bên cạnh đó,
trong tục lệ cưới hỏi còn có sự hiện diện của chiếc vòng đồng. Đây là tín vật
có ý nghĩa rất thiêng liêng, trọng đại mang tính chất đính ước, một lời giao
kết để làm tin giữa nhà trai và nhà gái. Trong khan Đam San và các sử thi,
truyện cổ tích của người Tây Nguyên thường xuất hiện tục lệ này. Những gì được
người Tây Nguyên phản ánh qua hình thức văn học nghệ thuật, đều xuất phát từ
cuộc sống, và nếp sinh hoạt văn hóa cho nên những tục lệ này tồn tại trong các
sử thi, cũng là điều dễ hiểu.
Dưới góc nhìn văn hóa,
chúng ta có thể tiếp cận gần hơn tới giá trị đích thực của tác phẩm văn học.
Chính sự kết tinh của một nền văn hóa, của những giá trị văn hóa đã tạo nên
phong cách riêng độc đáo, đậm đà cho người Tây Nguyên. Hay nói cách khác
"truyền thống văn hóa" Tây Nguyên là sự kết tinh của phong tục tập
quán, lối sống - sinh hoạt, và cũng là cái nôi của sự hình thành, phát triển
chất trí tuệ của người Tây Nguyên trong cộng đồng người Việt nói chung.
Bàn về đời sống văn hóa
quả không đơn giản, vì vốn dĩ, bản sắc văn hóa rất phong phú, đa dạng, mang
nhiều giá trị về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Với người Tây Nguyên, như
từng có đề xuất phương án lí giải, phải chăng, đó là một nền "văn hóa
rừng" theo nghĩa: "rừng không chỉ là tài nguyên, mà rừng là tất cả,
là toàn bộ cuộc sống của họ, là chính bản thân họ"... Rừng là không gian
sinh tồn và còn là thời gian sinh tồn của người Tây Nguyên. Chính điều này đã
tạo nên những trang sử thi của một thời cổ đại oai hùng với lí tưởng thần
thánh. Đam San là vẻ đẹp, là niềm tự hào của người Êđê nói riêng và các tộc
người trên dãy núi Trường Sơn nói chung...
Với những gợi mở của vấn
đề, chắc hẳn, việc tiếp cận đoạn trích được giới thiệu trong nhà trường và tác
phẩm đặc sắc Đam San sẽ có thêm một hướng đi mới.
( Theo Trần Hương
Giang-GV Trường THPT Bùi Thị Xuân-Huế)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét