Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2013

CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN TRONG TẬP THƠ "MỘT CHẤM XANH"


1.      Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm.
1.1. Tác giả
Phùng Khắc Bắc (1944-1991), quê xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây, sau chuyển lên xã Dĩnh Khế, thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Ông đi bộ đội từ 1966 đến 1988, sau đó giải ngũ với quân hàm đại úy rồi chuyển sang làm phó văn phòng Hội Nhà văn Việt Nam. Viết văn và làm thơ đã lâu nhưng khi còn sống, thơ Phùng Khắc Bắc chưa một lần in trên mặt báo. Viết rồi để đó, không đọc cho bạn bè nghe, không công bố, không ồn ào. Mãi sau khi mất vì bị căn bệnh nhiễm trùng máu, bạn bè và đồng nghiệp của ông biên soạn lại các tác phẩm dựa trên bản thảo dang dở.
Sinh thời, Phùng Khắc Bắc là một cây bút cần mẫn thuộc về bóng tối, luôn đứng ngoài danh vọng. Nhà thơ sống khép kín, viết giữa câm nín, khắc khoải, xót xa. Cũng may, những câu chữ trĩu nặng ấy được vợ ông – bà giáo Nguyễn Thị Minh Tuất gìn giữ cẩn thận đến ngày công chúng ồ lên ngạc nhiên, lần lượt chứng kiến NXB Quân Đội Nhân Dân ấn hành tập thơ “Một chấm xanh” vào năm 1991, tập truyện “Chiều xuân nắng hanh” vào năm 1995 và tiểu thuyết “Đời thường” vào năm 2001. Trong đó tập thơ Một chấm xanh đạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, tiểu thuyết Đời thường đạt giải thưởng Cuộc thi tiểu thuyết Hội Nhà văn Việt Nam (1998-2000).
1.2.     Tập thơ “Một chấm xanh”
       - Thời điểm sáng tác: Một số ít bài thơ tác giả có ghi ngày tháng sáng tác, hầu hết là vào năm 1984-1985, còn nhiều bài không rõ thời gian nào. Toàn tập thơ gồm 28 bài. Phần lớn những tác phẩm Phùng Khắc Bắc viết đều là vô đề, đầu đề nhiều bài in trong tập thơ là do các đồng nghiệp biên soạn của ông đặt ra.
- Nhan đề: Bạn bè đồng nghiệp biên soạn đã lấy “ký hiệu” đời ông để đặt tên cho tập thơ. Cuộc đời Phùng Khắc Bắc đúng như thơ tác giả đã giãi bày, tâm sự:
Ký hiệu của đời tôi là một chấm xanh ngăn ngắt
Ký hiệu của thơ tôi là sự minh bạch trong rắc rối đến khôn cùng.
Thế mới là tôi
Thế mới là đời
Thế mới là thơ
Tất cả hòa nhập lại như ánh sáng trộn cùng bụi.
Thật ít có người làm thơ nào lại im lặng trắc ẩn giống như Phùng Khắc Bắc. Trong thầm lặng, ông cầm bút như món nợ ân nghĩa phải trả cho đồng đội, như món nợ trăn trở phải trả cho chính mình, như tâm niệm “mừng thay, vẫn còn nguyên những giọt nước mắt trong lòng”.
- Nội dung: Thơ ông là sự đối thoại giữa con người và thiên nhiên, vũ trụ, sự đối thoại tiếp xúc giữa cõi âm và cõi dương. Trong tập thơ có những bài nói về nhân tình thế thái của con người đương đại hay nói về cõi chết với cái nhìn sâu sắc linh thiêng. Thơ ông cũng thể hiện tình yêu quê hương tha thiết, tình cảm chân thành trong tình yêu.
-  Nghệ thuật: Đa số các bài thơ được viết theo thể tự do, ngôn ngữ thơ giàu sức gợi. Đặc biệt, ngôn ngữ kể xuất hiện khá phổ biến phù hợp với tâm trạng muốn được giãi bày hay hoài niệm. Giọng điệu thơ có lúc trầm tư triết lí về các vấn đề cuộc sống, có lúc tự vấn chân tình trước những gì đã qua. Nhiều bài viết về chiến tranh, về người lính đã cho thấy bút pháp tinh tế và cái nhìn tỉnh táo của nhà thơ.

                   2. Quan niệm về chủ nghĩa nhân văn

    Từ sau năm 1986 khái niệm chủ nghĩa nhân văn được đề cập ngày càng nhiều hơn trong nghiên cứu và phê bình văn học. Thật ra thì chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm quá mới (như khái niệm thi pháp) đối với văn học Việt Nam. Ðể có cái nhìn đầy đủ về chủ nghĩa nhân văn cũng như những biểu hiện của nó trong văn học việt Nam, chúng tôi xin được nêu lên một số quan niệm về chủ nghĩa nhân văn:
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”: Xét ở cấp độ thế giới quan thì chủ nghĩa nhân văn là một hệ thống những quan điểm, tư tưởng, tình cảm về các giá trị con người, đó là trí tuệ, phẩm giá, sức mạnh, tâm hồn và cả hình thể; hay nói khác đi  là cái nhìn về con người ở nhiều phương diện và bao hàm cả cách đánh giá. Còn xét ở cấp độ lịch sử thì chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu văn hóa, tư tưởng vì quyền lợi con người cá nhân: giải phóng con người, ngợi ca con người, đề cao những khát vọng, sức mạnh tiềm năng của con người.
Trong khi đó, “Từ điển văn học” lại cho rằng: Chủ nghĩa nhân văn là một hệ thống quan điểm triết học, đạo đức, xã hội,… coi con người là một thực thể trần thế gắn liền với xã hội, xem con người là trung tâm của thế giới, của xã hội.
Hồ Chí Minh quan niệm: chủ nghĩa nhân văn chính là lòng khoan dung, độ lượng của con người đối với con người. Theo Võ Nguyên Giáp (khi nói về Hồ Chí Minh), đó là lòng yêu thương con người gắn với lòng tin không bờ bến và tuyệt nhiên nó không phải là lòng thương hại. Giáo sư Ðặng Thai Mai thì lại cho rằng: đó là một hệ thống tư tưởng lấy cõi người và con người làm trung tâm. Có nghĩa là con người là trung tâm của mọi vấn đề, lấy con người làm thước đo cho mọi giá trị. Vonghin khẳng định: Chủ nghĩa nhân văn phải bắt nguồn từ thực tế đời sống, phục vụ nhu cầu, khả năng trần thế và những nhu cầu ấy phải được thỏa mãn.
Mác quan niệm: Chủ nghĩa nhân văn là yêu cầu kính trọng con người và tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực, quyền sống của con người.
Từ một số quan điểm như trên có thể khẳng định: Dù xem chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu văn hóa, tư tưởng hay là một hệ thống quan điểm triết học thì chủ nghĩa nhân văn đều hướng đến việc giải phóng con người, xem con người là mục đích cao nhất trong đời sống và sự phát triển của xã hội. Nó đánh giá, nhìn nhận một cách đúng đắn về năng lực con người để từ đó tạo mọi điều kiện cho việc phát huy tối đa năng lực vốn có của con người.
Vôngin: chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những quan điểm đạo đức, chính trị bắt nguồn từ thực tế của đời sống con người với những nhu cầu khả năng trần thế và những nhu cầu khả năng ấy phải được phát triển đầy đủ, phải được thõa mãn. Từ quan niệm của Vôngin ta nhận thấy chủ nghĩa nhân văn không chỉ là chính trị, triết học mà nó là nhu cầu, là khát vọng của con người đáp ứng đến tận cùng yêu cầu của con người là được “thỏa mãn”.
Trên cơ sở các vấn đề, có thể khái quát mấy điều về chủ nghĩa nhân văn:
Thứ nhất, chủ nghĩa nhân văn là khái niệm để chỉ một trào lưu triết học văn hóa, văn nghệ mang tính chất tiến bộ hướng đến việc giải phóng con người, giúp con người tiến bộ thoát khỏi những đè nén về tinh thần và sự kềm chế con người.
Thứ hai, chủ nghĩa nhân văn hướng đến con người, xem con người là mục đích cao nhất trong đời sống và sự phát triển của xã hội (mục đích là vì con người)
Thứ ba, phân biệt khái niệm chủ nghĩa nhân văn – chủ nghĩa nhân đạo – chủ nghĩa nhân bản: Trong Từ điển thuật ngữ văn học người ta quan niệm chủ nghĩa nhân văn là chủ nghĩa nhân đạo, xem chủ nghĩa nhân đạo như là chủ nghĩa nhân văn. Hoàng Ngọc Hiến khi trình bày chủ nghĩa nhân đạo thì thấy chủ nghĩa nhân đạo như chủ nghĩa nhân văn bởi vì giữa chủ nghĩa nhân đạo và chủ nghĩa nhân văn có những phần chung. Thế nhưng giữa hai khái niệm này có những điểm khác
Nói đến khái niệm chủ nghĩa nhân đạo thì ta hiểu rằng khái niệm này thiên về phương diện đạo đức, luân lý, tình thương đối với con người; đau khổ, xúc động, cảm thông, xót xa với nỗi bất hạnh của con người.
Theo T.S Nguyễn Lâm Điền thì chủ nghĩa nhân bản nhìn con người ở góc độ triết học và tôn giáo, xem con người không phải là thần thánh và đối xử với con người một cách khoan dung độ lượng
Chủ nghĩa nhân văn chính là cách nhìn, cách đánh giá về năng lực của con người. Đó là việc phát huy tối đa các năng lực đó của con người.
Trong văn học, chủ nghĩa nhân văn theo quan niệm Macxit nhìn nhận ở 5 điểm sau (5 tiêu chí):
Một là, con người phải là vị trí trung tâm, phải là bình diện thứ nhất của tác phẩm. Đó là con người cá nhân, con người ở địa vị một người.
Hai là, văn học phải quan tâm đến khát vọng, ước mơ, lý tưởng, nỗi niềm riêng tư, những bi kịch, những lỗi lầm của con người nói cách khác quan tâm đến toàn bộ thế giới bên trong của con người
Ba là, văn học phải bảo vệ quyền sống và bảo vệ môi trường tự do của con người. Quan tâm đến sự hình thành hoàn cảnh đến năng lực của con người có thể phát triển.
Bốn là, văn học phải phản ánh cái xấu, cái bất nhân, vạch trần bản chất của những thế lực ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của con người.
Năm là, một tác phẩm có tính nhân văn thì tất yếu phải có giá trị thẫm mĩ. Chủ nghĩa nhân văn đích thực không tách rời cái đẹp của nghệ thuật. Tóm lại, chủ nghĩa nhân văn trong quan niệm Macxit đó là hội tụ những giá trị toàn năng của con người và được phản ánh ở một trình độ tư tưởng thẫm mĩ của thời đại.
        3. Biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn trong tập thơ “Một chấm xanh” (Phùng Khắc Bắc)
       Trong số những tác phẩm đã xuất bản, có thể thấy hồn cốt của Phùng Khắc Bắc đều nằm ở “Một chấm xanh”. Tập thơ đã khắc họa được đậm nét chân dung của chính tác giả. U trầm, từng trải, có phong cách riêng khó lẫn với người khác. Đọc tập thơ Phùng Khắc Bắc, người đọc hình dung ra cuộc đời của một người lính đã trải qua chặng đường chiến tranh. Thơ ông như một tấm lăng kính soi rọi được những vẻ đẹp, những gian khổ hy sinh, những góc khuất riêng tư mà nhà thơ đã trải qua, chiêm nghiệm. Với ý nghĩa đó, tập thơ mang giá trị nhân văn sâu sắc và có chỗ đứng xứng đáng trên văn đàn.
     3.1. Đặt con người lên vị trí trung tâm và bình diện thứ nhất.
Trong toàn bộ tập thơ, điều mà Phùng Khắc Bắc quan tâm và xoáy sâu thể hiện không gì khác hơn chính là con người. Nhà thơ khám phá, viết về con người với những tình cảm chân thật, những trăn trở suy ngẫm trước thời cuộc. Ông đi sâu thể hiện đời tư của cá nhân con người bình thường có đời sống riêng, thân phận riêng đầy thăng trầm. Mọi sự nhận thức hay suy nghiệm về lẽ đời, tình đời cũng đều vì sự tiến bộ của con người.
Điểm sáng đầu tiên ta ghi nhận được đó là sự đánh giá cao của nhà thơ về sự hình thành và tồn tại của con người trên trái đất. Phùng Khắc Bắc rất trân trọng con người bởi con người chính là tinh hoa của cuộc đời: Đất phải triệu triệu lần quay, ánh sáng phải triệu triệu lần chiếu, mưa phải triệu triệu lần lẽo đẽo giọt ngắn giọt dài/ Chỉ như thế mới tạo nên con người”. Từ đó nhà thơ chiêm nghiệm về lẽ sống ở đời của mỗi người chúng ta:
Thì ra để thành một con người như hôm nay, không phải là đơn giản như ta nhìn thấy trong nhà hộ sinh.
Cái cửa bước ra làm người trông đơn sơ nhỏ bé
Cái cửa để bước ra khỏi kiếp người, còn giản dị và dễ dàng hơn
Nhà hộ sinh và nghĩa địa là cái khung chân dung thời gian của mỗi con người.
Vượt ra ngoài cái khung ấy là gì?
Nếu có thể nói được bằng ngôn ngữ của người, tôi bảo:
Đó chính là tình yêu người khác ngoài mình...
(Không đề I)
Vấn đề được đặt ra ở đây vô cùng ý nghĩa. Con người được sinh ra hay chết đi vốn rất dễ dàng nhưng sống sao cho đúng nghĩa một người mới là điều khó khăn. Để vượt ra được cái khung chân dung thời gian ấy, mỗi người cần có tình yêu người khác, nghĩa là sống không chỉ cho riêng mình, vì mình mà còn sống vì người khác, sống bằng tình người chan chứa yêu thương. Và rồi, nhà thơ ước muốn cho tất cả mọi người trên cõi đời này được sống bình yên, hiểu nhau hơn để hạnh phúc hơn. Những lời kêu gọi núi và biển hãy bên nhau, nhẫn nhịn sống vì nhau cũng chính là sự quan tâm sâu sắc của Phùng Khắc Bắc về con người trên trần thế:
Hãy yêu nhau, thương nhau
Đừng hùng hổ, cũng chớ lạnh lùng
Hãy là cá, là chim, là rong rêu, là con người – biết sống
Dù bão núi, gió gièm, cũng giữ lòng khỏi động
Dù nắng xiên trăng chếch cũng giữ bóng đừng nghiêng
…Cứ lẳng lặng hiền hòa biết sống cho nhau
(Núi và biển)
Nhà thơ đang kêu gọi và đánh thức mọi người hãy giữ gìn hạnh phúc, phải biết trân trọng, nâng niu những gì mình có được. Không dừng lại ở đó, Phùng Khắc Bắc còn mong muốn con người sống có ích và sống tự do thoải mái. lúc ông vùng vẫy, đòi được tự do dù chỉ là một phút, một lời hay một chữ để được sống một cách chính đáng làm những gì mình thích, mình nghĩ và hoàn toàn không có sợi dây nào của cuộc đời trói buộc:
Hãy cho ta một lần tự do              
Dù ngắn ngủi nhưng một lần cũng đủ
Một giờ, một phút, một lời hay một chữ
Nhưng đích thực là tự do
Bởi khó khăn thay trong cuộc đời này
Từ khi sinh nhân loại
Ai cũng đi tìm điều ấy
Và chưa một ai thấy.
(Tự do)
Đó phải là sự tự do có thật và hiện hữu trên cuộc đời này chứ không phải mông lung ở một cõi siêu nhiên nào đó. Phùng Khắc Bắc không chỉ bày tỏ ước muốn cho riêng mình mà cho tất cả mọi người nói chung. Viết cho con người và vì con người rõ ràng vần thơ thấm đẫm tinh thần nhân văn.
Trong những trang thơ, Phùng Khắc Bắc còn tôn vinh và ngợi ca vẻ đẹp của con người. Đó là vẻ đẹp của nhân cách, của sự hi sinh thầm lặng. Ngòi bút tác giả thật giàu cảm xúc khi nói lên sự hi sinh lặng lẽ của những người mẹ, những người phụ nữ có chồng con ra trận:
Giặc đến mấy chục năm nay
Lúc vắng cha, là lúc tan nhà
Lúc vắng con nhà không còn
Một mình mẹ, gồng gánh, tảo tần, lặn lội đằng đẵng một chiều dài không gian lặp đi lặp lại hai màu sớm - tối, trên một không gian ruộng, chợ, làng, nhà…
Thế mà vẫn lớn hơn, không gian và thời gian của con và của cha đi xa.
(Ra đi)
Còn đây là nét đẹp của người lính: không ngại gian khổ, khó khăn, hi sinh tình nhà không toan tính để phục vụ Tổ quốc:
“Ta- đã ba mươi năm xa
Ba mươi năm nằm hầm
Ba mươi năm làm mục tiêu cho những họng súng
Của ba kẻ thù lăm lăm…
Nhà dột
Con dốt
Vợ xa
Mẹ già
Chỉ vì ta
Nhưng ta chưa một lần kêu khổ
Cũng chưa một lần vì những cái đó mà sợ
Chỉ sợ duy nhất là mình không dám quên mình đi.”
                                                                        (Ngày hòa bình đầu tiên)
Trong Đo bằng chiều cuộc đời, ông khâm phục biết bao hình ảnh một người lính đã sống và cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho đất nước:
Tôi đến bờ biển Cồn Thoi
Gặp một người lính đã bạc đầu
Anh đã lấy tuổi sáu mươi để đo những cánh rừng, đo độ sâu của những hố bom, đo chiều rộng những sân bay, đo chiều cao của những cao ốc… đo từ Nam lên Bắc, đo từ Đông sang Tây.
Và hôm nay anh cũng đang còn rất bận.
Người lính trong thơ Phùng Khắc Bắc không chỉ biết hi sinh trong chiến tranh mà còn trong hòa bình nữa. Cả cuộc đời cống hiến không mệt mỏi, người lính ấy không tiếc gì, chỉ lo mình không đủ thời gian và sức lực để làm đất nước được rộng thêm ra. Vẻ đẹp tâm hồn người lính thật rạng ngời!
Đọc "Một chấm xanh", ta thấy cộm lên những bài thơ với những đoản khúc giàu trắc ẩn: Con chó đá, Không đề IV, Lời con hỏi, Trở về miền đồi… Bài Con chó đá dẫn nhà thơ tới kết luận: “Ta phải là ta cả phần xác lẫn phần hồn”. Những câu thơ Phùng Khắc Bắc đôi lúc khiến cho người đọc phải giật mình, nghiêm túc nhìn nhận và soi rọi lại mình:
Trong đời nghèo và trong chiến tranh
Con người vẫn tìm ra một lối rất chật
 Để chui qua
Có người rất thật thà
 Sung sướng mừng vui về điều đó
Và quên đi một điều
 Ta đã bị thu mình rất nhỏ”.
(Không đề XI)
Hay:
Mặt lá nhìn ngửa
Mặt người nhìn ngang
Mặt loài thú lang nhìn xuống
Khi ta còn nhìn lên kính ngưỡng
Khi ta còn cúi xuống khẩn cầu
Ta vẫn tự tạo ra mình bằng những dáng đau
(Trở về miền đồi)
Phùng Khắc Bắc mạnh về suy tưởng cùng những trầm ngâm sốt ruột. Đây chính là những dòng trăn trở của nhà thơ về nhân cách và khí tiết của con người. Ông băn khoăn, đau đáu và lúc nào cũng canh cánh bên lòng nỗi niềm: làm sao để con người đứng thẳng mình, giữ vững mình và có điều kiện để phát triển tốt đẹp. Cái nhìn tỉnh táo giàu chất suy tư ấy chính là bề ngoài của một nỗi đam mê lớn bên trong.
Với những điều chiêm nghiệm và những dòng suy tưởng thênh thang, nhà thơ nhận thấy cuộc đời người thật ngắn ngủi. Cái vòng tròn luân hồi của cuộc sống con người được bắt đầu từ nhà hộ sinh và kết thúc cuộc đời là ở nghĩa địa. Ông cũng suy ngẫm nhiều tới lẽ sinh tử trong kiếp người, tạo vật. Những bài như Ta chết đây, Bài thơ riêng cho người chết, Trước mộ em trai ở nghĩa địa Hà Lầm, Biển hối thương, Không đề I… tác giả nhìn thấy những tấm bia "có chân không có tay" đứng lặng phắc trong màn đêm nhập nhoạng. Trước bao hình ảnh kinh dị, Phùng Khắc Bắc tự thức tỉnh mình, tự nhận thấy một sự thật: Ta đi giữa sự công bằng tầng dưới, và sự bất công bằng ở tầng trên. Rồi khi tới mộ người em trai, trong sự đau đớn thương tiếc, anh lại nghe được cả tiếng nói sâu thẳm vọng lên từ đất:
“ Anh hãy sống sống dần dà đừng vội
Bởi,
chúng ta còn phải chết nhiều lần.”
(Trước mộ em trai ở nghĩa địa Hà Lầm)
Hẳn viết về cái chết, Phùng Khắc Bắc muốn nhắc nhở mọi người hãy sống lương thiện, tốt lành hơn.
Như vậy, ngòi bút của Phùng Khắc Bắc đã chạm đến những vấn đề căn cốt của đời sống con người (tự do, hạnh phúc, nhân phẩm, lương tri..). Đặt con người ở vị trí trung tâm, nhà thơ suy ngẫm về cái được, cái mất, hạnh phúc và đau khổ của mỗi người trong cuộc đời. Phần con người đích thực được thể hiện sinh động qua những trang viết đầy cảm thông.
3.2. Khi tái hiện đời sống con người, nhà thơ quan tâm đến khát vọng, ước mơ, những nỗi niềm riêng tư, kể cả những bi kịch hay lỗi lầm của con người.
Đọc "Một chấm xanh" ta nhận ra con người trong thơ Phùng Khắc Bắc là con người của cá nhân, của đời thường. Con người ấy có những tâm tư, tình cảm có ước mơ thầm kín, có những xúc cảm rất “người”. Con người ấy sẵn sàng không vào đại học mà ra đi cầm súng gìn giữ quê hương nhưng lúc chia tay người thân vẫn rất day dứt, không giấu được nỗi buồn xa xót (Ra đi). Con người cá nhân có tình yêu đôi lứa chân thành, mãnh liệt, khát khao (Thân cọ đỉnh đồi, Yêu, Âm thầm, Từ hai phương trời, Biển thức…). Con người có lúc vui, lúc buồn, lúc lại thấy cô đơn trơ trọi… (Ngày hòa bình đầu tiên, Cô đơn, Nỗi buồn, Ta chết đây…). Đó là lẽ tất yếu phù hợp với tâm lí con người trong cuộc sống. Tất cả những điều riêng tư cá nhân, những ngõ ngách trong tâm hồn hay khát vọng thầm kín ấy được giãi bày rất chân tình, thấu đáo.
Trong "Một chấm xanh", tác giả viết về với đời sống riêng của cá nhân mình, với những ấn tượng, những nỗi niềm riêng. Đây là tâm trạng xót xa của người con trước khi ra chiến trường, sự giày vò của người lính trẻ khi soi thấu bốn cái nhìn của người cha, người bà, người mẹ, người yêu lúc tiễn đưa. Cái nhìn của người cha nghiêm nghị mà soi thấu:
Cha tôi vắng mặt
Người đã tiễn tôi bằng cái nhìn như vuốt vào đôi mắt
 Đó là lúc Người khuyên tôi vào đại học, mà tôi quyết ra đi”.
Cái nhìn của bà nội trìu mến mà luân lạc:
 “Bà nội ngồi nơi cửa bếp
Cái nhìn và cái gật đầu của bà là lời vĩnh biệt
 Bà chết, sẽ vắng mặt tôi”.
Cái nhìn của người mẹ bao dung mà ái ngại:
Mẹ không bước ra ngoài ngưỡng cổng
 Chỉ có ánh mắt mẹ là vượt qua cả cái đích đi của con
 Khúc lưng cong của con đường làm cho con ngoái lại
 Và cái nhìn lệch hướng với đích đang đi”.
Cái nhìn của người yêu buồn thương mà ân cần:
 “Em vắng
 Nhưng cái nhìn của em vọng từ xa lặng
 Để chỉ mình anh được ngắm em nhiều”.
Bốn cái nhìn nôn nao “chợt vụt vạt nắng phân ly tê tái, chợt òa cơn mưa hạnh ngộ mòn mỏi”. Bốn cái nhìn bồn chồn từ bài thơ “Ra đi” khơi gợi phía độc giả những run rẩy mãnh liệt.
 Nào là sự suy tư về nỗi đau chiến tranh, nhớ thương mẹ già ngày đêm vất vả (Trở về miền đồi). Và còn nữa tâm trạng buồn vui hòa lẫn của người lính khi trở về nhà trong “Ngày hòa bình đầu tiên”. Nhìn mái nhà mẹ thủng lỗ chỗ, mưa dột, nắng xiên người lính lần đầu tiên giật mình. Bởi không phải vì bom đạn hay na-pan, phôt-pho của kẻ thù bắn trúng mà vì đứa con trai đi xa, sự chờ đợi nặng nề giọt xuống đã xuyên thủng mái nhà mẹ thành những lỗ to lỗ nhỏ khác nhau:
“Nắng mưa lọt vào sau
Xuyên
Xối
Những sợi nắng, những sợi mưa nếu có thể nối, cũng chỉ dài bằng một phần sự mong đợi
Và những hạt nắng, những hạt mưa nếu đem xếp lại, có thể cao hơn mọi trái núi.
Mười năm, cũng chỉ là thoáng qua,
Vì tuổi mẹ sáu bẩy lần hơn,
Mẹ vẫn nói đời mình như nắng trận mưa cơn...
Mái rạ của mẹ cũng không thủng lỗ chỗ
Nếu con chỉ đi ra đồng, ra chợ
Chứ không phải đi vào chiến tranh.”
(Ngày hòa bình đầu tiên)
Mái nhà như có mắt nhìn khiến người lính ấy dâng lên nỗi buồn khó tả. “Nỗi buồn của anh không phải trong chiến tranh” mà vì những xốn xang trước cảnh mẹ già nua vất vả. Anh là niềm tin, lẽ sống, là chỗ dựa của gia đình mà lại để những gánh nặng mưa nắng dồn lên đôi vai còm cõi của mẹ già. Trước cảnh nhà dột, người lính cảm thấy những lỗ thủng "thành những mũi tên, thành những viên đạn", bắn tiếp về phía mình:  
Những sợi nắng xuyên qua nhà mình
Thành những mũi tên,
Thành những viên đạn,
Bắn tiếp vào anh không gì che chắn
Phải nhận tất cả,
Vẫn anh.
Trong những cảm xúc ngày trở về, có lẽ hơn hết chính là niềm hạnh phúc bên mâm cơm đạm bạc. Hạnh phúc thật bình thường, giản dị nhưng phải trải bao gian khổ hy sinh người lính mới giành lại được:
“Mẹ giục
- Ăn cơm, con
 Hòa bình trong canh cua, mồng tơi, cà
Mùi ổ rơm”.
Đặc biệt trong tập thơ ta còn bắt gặp tình cảm riêng tư của con người: tình yêu đôi lứa. Trong tình yêu, Phùng Khắc Bắc có những vần thơ chân thành, tha thiết. Những bài thơ viết về tình yêu như Yêu, Nỗi nhớ, Từ hai phương trời, Thân cọ đỉnh đồi, Tại sao, Một đôi trống mái,… luôn làm xao động lòng người. Khi yêu, tác giả sống trong tâm trạng bồn chồn, khắc khoải:
Nghe tim ta thắc thỏm
Yêu mất rồi em ơi
Tìm đâu ra nơi chốn
Trái đất chật mất rồi
                                          (Yêu)
Có khi như một kẻ lữ hành cô độc, yêu đấy mà vẫn không tìm thấy đích:
          Nhưng, yêu mà buồn mà sợ.
 Ngỡ ngàng trước ngã ba.
Lòng muốn gần nhưng chân muốn trốn xa.
Hồn mới mẻ mà mặt sầu cũ nát.
(Yêu)
Nhưng hơn hết người đọc nhận thấy ở Phùng Khắc Bắc sự sâu nặng, trân trọng tình yêu. Nhà thơ bày tỏ chân thực ước muốn được gần gũi người mình yêu thương cũng như những hy sinh, phiền muộn mà mình gánh chịu khi xa cách người tình:
Yêu nhau mà phải xa nhau
Như người kiếp trước kiếp sau đợi chờ...
Người dưng ai nỡ ngẩn ngơ
Chỉ yêu mới thấy bến bờ là xa
Ước gì trái đất của ta
Nhỏ như hạt tấm để xa hết buồn.
(Không đề II)
Khi nói về tình yêu, Phùng Khắc Bắc thể hiện đầy đủ những cung bậc tình cảm. Những lúc xa nhau người lính ấy sống trong tận cùng của nỗi nhớ. Có lúc đó là nỗi nhớ đằm thắm, lắng sâu:
Em đi
Anh nhớ,
Anh nhìn cây,
Lá bay
Mà không nhận ra màu của gió.
(Nỗi nhớ)
            Có lúc là nỗi nhớ day dứt, triền miên:
Ở phương này sông xanh biển xanh
Sao anh nhớ
Ở đâu ai mong ai nhủ
Mà mũi cay, mà mắt máy
Em có nhắc anh từ phương ấy
Phương này anh đang nhớ em.
                                             (Từ hai phương trời)
Nỗi nhớ rất thực và dữ dội đó là biểu hiện của tình yêu tha thiết, mãnh liệt, thủy chung. Và cũng như mọi người, nhà thơ khát khao được đến bến bờ hạnh phúc cùng người mình yêu thương:
Quê anh miền trung du
Quê em miền biển
Hai phương trời như ngoảnh mặt vào nhau
Tay phải, tay chiêu chắp lại nguyện cầu
Cho hai thành một 
                                             (Một đôi trống mái)
Ông luôn mong muốn có được một tình yêu cao cả vượt lên trên tầm cao vũ trụ “Yêu - mới thấy trái tim mênh mông hơn trái đất/ Yêu - mới thấy một người cao cả hơn loài người”. Bởi tình yêu có sức mạnh diệu kì tiếp thêm động lực cho con người vượt qua những khó khăn, những buồn vui trong cuộc sống. Cho nên dầu cho có chuyện gì xảy ra thậm chí là trái đất có nổ tung, con người ấy vẫn khao khát được yêu và sống trong những cảm xúc chân thật:
Nhưng lại muốn thành cỏ, thành chim, thành kiến, thành sâu
Để vẫn đến với nhau trên đất
Không biết khổ buồn, chỉ một điều duy nhất
Là niềm vui- TÌNH YÊU.
(Yêu)
Ông không ngần ngại bộc bạch nỗi lòng riêng tư, ước mơ thầm kín:
Anh muốn cùng em đi ra bờ sông
Để được ngồi trên cỏ mật
Nhìn dòng chảy ngắm lòng ta cho đẹp
Mọi chuyển lưu đều mới của cuộc đời.
(Âm thầm)
Ở Phùng Khắc Bắc, thơ tình xuất phát từ tâm trạng, cảnh ngộ riêng mình. Tác giả thổ lộ: Chúng ta yêu nhau trong âm thầm khổ đau, song những vần thơ tình của tác giả cũng rất da diết và không kém phần dữ dội.
Thơ Phùng Khắc Bắc còn là một sự tự vấn, chiêm nghiệm về nhân cách chân thật của con người. Đối với ông con người không phải là hoàn thiện, bên cạnh những mặt tích cực, tốt đẹp thì con người cũng có lúc sai lầm, có những lúc chệch hướng trong nhận thức, trong suy nghĩ. Bởi vì đó là điều rất bình thường của những con người bình thường. Và cũng là một người bình thường trong xã hội nên có lúc chính nhà thơ đã mắc lỗi lầm:
Hãy tha thứ cho anh
Hãy tha thứ điều anh đã nghĩ.
Đừng ngạc nhiên, đừng rẻ rúng, đừng trạnh lòng
Đó là điều anh nghĩ chứ không phải điều anh mong
…Hãy tha thứ cho anh
Chỉ một lần thôi
 Một lần cho anh được nói
 Để em hiểu anh cũng là con người trong những con người
Thế thôi!”
(Hãy tha thứ cho anh)
 Ấy là bản “kiểm điểm” chân thành và xúc động về đời tư của một con người trước dòng chảy của thời cuộc. Phùng Khắc Bắc không né tránh mà thẳng thắn nhìn nhận những khuyết điểm của bản thân.
Bước qua thử thách khói lửa đã khó, mà bước qua bề bộn đời thường còn khó hơn. Phùng Khắc Bắc dằn vặt từng ngày sống. Nhiều khi Phùng Khắc Bắc an ủi mình bằng tâm trạng ông lão bơm xe bên lề đường trông thấy đôi trai gái đèo nhau lướt qua sôi nổi, rằng “ta đã làm nên sắc đẹp của cả hai đứa hôm nay”, nhưng vẫn luôn thảng thốt khi cảm thấy cô đơn đang vây bủa đến tận cùng:
Tất cả nỗi cô đơn trong ngày lạc
Tất cả nỗi cô đơn trong cơn hồng thủy
Tất cả nỗi cô đơn sau trận bom nguyên tử
Tất cả nỗi cô đơn trên con tàu vũ trụ
Không bằng nỗi cô đơn sau lời mời của người con gái đẹp bán hàng trong chợ Đồng Xuân.
(Cô đơn)
Có lúc ông cảm thấy như lạc lõng giữa cõi đời. Những vần thơ sau thể hiện rõ nỗi buồn chơi vơi của chính tác giả:
Ta như lạc giữa ngã ba Đời
Có lúc đi lang thang
về đâu
không biết nữa...
Có lúc vật vờ, như hồn thiêng không nhà không cửa.
(Trứng)
Sự giãi bày chân tình đó của cái tôi chính là nhu cầu tất yếu mang ý nghĩa nhân văn. Nhà thơ công khai bày tỏ nỗi buồn, thể hiện những cảm nhận của cái tôi trước một thực tại khắc nghiệt. Những câu thơ viết ra như một hình thức tra vấn không ngừng về đời sống. Con người giàu lòng trắc ẩn, đa mang ấy đang trở về với cái tôi cá nhân, những âu lo của đời sống thường nhật.
             Thường bị đau yếu, bệnh tật, Phùng Khắc Bắc còn linh cảm thấy cái chết đang đến với mình. Bài thơ Ta chết đây chứng tỏ cái chết len sâu vào mạch máu, len sâu cả vào ý nghĩ của tác giả. Bài thơ còn dòng tự thú cũng hết sức chân tình và cảm động:
Nhà làm chưa xong
Vợ học chưa xong
Con học chưa xong
Nhiều cái chưa xong
           Cả cái chết cũng không đành lòng nhắm mắt
            Tóm lại, con người cá nhân trong thơ Phùng Khắc Bắc hiện lên sinh động. Con người đó có khát khao yêu thương, có những niềm vui nỗi buồn, có lo lắng, có hạnh phúc và đau khổ, có biểu hiện của tư chất riêng, có bổn phận của một thành viên trong gia đình và xã hội. Cũng như các nhà thơ sau 1975, cái tôi trong thơ Phùng Khắc Bắc là cái tôi đa diện, nhiều bất an, giằng xé, hướng nội. Từ các trang viết, người đọc nghe ra một giọng nói xót xa mà lại đầm ấm. Ngòi bút ấy đang viết cho chính mình.
2.3. Bảo vệ quyền sống, tự do của con người, quan tâm đến sự hình thành và hoàn cảnh sống, chú trọng năng lực con người.
Thơ Phùng Khắc Bắc còn là tiếng nói bênh vực, bảo vệ con người để con người có những quyền cơ bản: quyền tự do, sống hạnh phúc. Nhận thấy cuộc đời mình bị quá nhiều ràng buộc, kềm cặp:
Ta là con thuyền bị cột vào bờ
Một chiếc neo cái, hai chiếc neo con
Bến mênh mông, già nua như lục địa
Những ghềnh đạo đức, những đá ngầm phong tục
NEO – BỜ - GHỀNH  - ĐÁ ghìm chắc con thuyền con
(Biển hối thương)
nhà thơ không ngần ngại nói lên ước muốn được bứt ra khỏi những sợi dây ràng rịt, muốn tự do:
Dù gian nan
Dù chỉ một lần
Một lần thôi cũng đủ
Dù một giờ, một phút hay một lời một chữ
Nhưng đích thực là tự do”
                                                                                    (Tự do)

Nhà thơ bất chấp tất cả để được hít thở bầu không khí tự do dù biết rằng đó là điều rất khó. Nhưng với Phùng Khắc Bắc, tự do theo đúng nghĩa của nó dù là ít ỏi vẫn hạnh phúc gấp ngàn lần so với cuộc sống bị trói buộc. Nói như Xuân Diệu: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”. Rõ ràng, nhà thơ khẳng định coi trọng thế giới riêng của con người trong cuộc sống.

Ngòi bút chan chứa tinh thần nhân văn của nhà thơ không chỉ đòi quyền tự do cho con người khi sống mà còn nói lên ước nguyện của con người khi đã chết đi. Trong Bài thơ riêng cho những người chết, Phùng Khắc Bắc xót xa cho những người đã nằm xuống trong chiến tranh. Về với cõi âm, họ cũng có nhu cầu như lúc còn sống và hơn hết là mong muốn được sống công bằng:
Những người chết sau khi lập xong tên, xúm vào nói chuyện với nhau
Vì nhu cầu giao tiếp đến chết vẫn chưa thôi.
Họ cũng hỏi quê quán, mẹ cha, và nói lên những ước muốn sở cầu
Và họ đề bạt những những điều cần lên người có thẩm quyền trong cõi tối đen huyền bí.
Người quyền lực nói:
Mọi việc sẽ được an bài, đâu sẽ có đấy.
Trong khi nói chuyện họ nhận ra nhau
Ai ở phía này, ai ở phía kia
Và họ cười khì, lắc đầu thoả thích
Giống như sau khi diễn kịch, mỗi người vừa sắm xong vai mình.
Phùng Khắc Bắc luôn quan tâm, trăn trở làm sao để con người được sống hạnh phúc, công bằng, sống thật với chính mình. Nên trong thơ ông, dù con người còn sống hay đã về với cõi âm thì khát vọng ấy vẫn luôn âm ỉ. Phát hiện ra điều đó, Phùng Khắc Bắc chỉ ra “sự công bằng cần và phải làm ngay trên thế gian” chứ không phải ở cõi tối đen huyền bí. Chính ở đây toát ra tính nhân văn cao cả.
3.4. Nhà thơ phản ánh cái xấu, cái bất nhân, vạch trần bản chất của những thế lực ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của con người.
Thơ Phùng Khắc Bắc ngoài việc suy tư trăn trở về con người cá nhân, ông còn lên án cái bất nhân phi nghĩa, những thế lực chà đạp, kìm hãm sự phát triển của con người. Trong tập thơ, ngòi bút Phùng Khắc Bắc đã mạnh mẽ tố cáo chiến tranh bởi nó tàn phá quê hương, li tán gia đình, hủy diệt con người:
“ Hết cuộc chiến tranh này, đến cuộc chiến tranh kia
  Thay nhau đè lên những mái gianh
  Mái gianh mùa hanh cháy nhanh
  Tường sỏi đen màu khói.
 Không thể có thời gian dàng chỗ đứng cho những nhà tầng mái
  bằng, mái ngói.
  Chiến tranh như máy ủi,
  Chiến tranh thù văn minh.
  Chợ cháy,
  Làng cháy.
  Tre, rạ,
  Không kịp dựng nhà, dựng lều
  Quê hương mà ta sinh ra và quý yêu
  Khổ đau là thế
  Ta cũng chỉ là một viên sỏi nhỏ bong ra từ mảnh đất này.”
(Ra đi)
Không có sự tàn phá nào ác liệt và ghê gớm hơn chiến tranh. “Bài thơ riêng cho những người chết” là tiếng nói phẫn nộ lên án chiến tranh đã hủy hoại con người một cách dã man:
   “Trong số những người về sau cuộc chiến tranh
Có người còn nguyên hình
Có kẻ cụt chân, có người thì thiếu ngón,
Người thủng đầu, người xơ gan, nát ngực
Có người chỉ còn là một cục thịt,
Vì mình anh ta chịu một chùm bom B52 làm gì không tan biến”
Sự tàn phá khốc liệt đó sẵn sàng giày xéo, chà đạp và hủy diệt con người không thương tiếc. Người tử trận nhiều vô số, người còn sống trở nên dị dạng hoặc mang di chứng nặng nề. Những bài thơ Ra đi, Ta chết đây cho thấy những mất mát cay đắng của người thương binh sau chiến tranh:
Đi làm đảng viên
Đi làm liệt sĩ,
Tất cả đều không thành
Chỉ là thương binh.
 Thương binh không vết sứt ngoài da,
Thương binh có những vết rách trong phổi,
Được hàn lại bằng kháng sinh và tình đồng đội.
Thương binh có siêu vi trùng nằm ngủ trong gan,
Có vết đạn trong van tim, có vết loét lam nham trong dạ dày.
Và nguy hiểm nhất là có tế bào lạ biến hình của chất độc da cam nằm lặng yên, mỉm cười thâm trầm trong máu…
(Ra đi)
Chiến tranh làm con người ta chết tuổi thanh xuân, cái tuổi tươi đẹp nhất mà con người đáng được hưởng. Mặt khác, nó còn để lại những di chứng lâu dài, những “nguyên tử hơi độc da cam” đang từng ngày gặm nhấm và hủy hoại sức khỏe, khiến con người chết lần hồi:
“ Ta chết đây!
Và khắc giây này,
Có bao nhiêu người cùng chết
Và bao nhiêu người phục sinh

Người thương binh đến hôm cuối cùng nghĩ thế.
Và còn thêm:
Những người cùng chết chỉ nên nói và nên nghĩ
Hôm nay đúng là tuổi, là ngày, ta đi về quê tiên tổ

Còn riêng ta,
Những người cùng sinh hôm nay phải cùng biết,
Lời vĩnh biệt trối lại là:
Ta chết giữa tuổi thanh xuân
Vì một nguyên tử hơi độc da cam”
(Ta chết đây)
Những bài như Ta chết đây, Trước mộ em trai ở nghĩa địa Hà Lầm, Bài thơ riêng cho những người đã chết, Những ngôi nhà đứng nghiêng,… là những suy ngẫm đớn đau của Phùng Khắc Bắc về con người, về cuộc đời. Đây vừa là tiếng nói đanh thép, vạch trần, lên án tội ác dã man của quân giặc vừa là thông điệp bảo vệ quyền sống con người.
Chiến tranh là hiện thân của cái ác, cái bất nhân đã gây nên bao tai họa cho con người. Với tinh thần bất khuất, bao nhiêu người Việt Nam đã hi sinh anh dũng, bao nhiêu người lính đã bất chấp gian khổ và vượt lên thực tại khắc nghiệt để đổi lấy độc lập tự do. Nhưng bước sang thời bình, những người từng nằm hầm, đội bom ấy có lúc đã phải chịu bất công:
Chết là hết
Mọi cái đều không.
Vì ta không chết trên chiến địa
Vì vết thương này không chứng minh được ta là liệt sĩ
                                             (Ta chết đây)
Đoạn thơ là dòng tâm sự của người lính chịu những tháng ngày lao khổ nơi trận mạc giờ quay về mang trong mình những vết thương do nguyên tử hơi độc da cam. Những vết thương trong thời chiến còn kéo dài nỗi đau đến tận hôm nay, khiến họ chết dần đi nhưng cái chết thời bình không chứng minh họ là liệt sĩ. Vì vậy họ sẽ không được nhớ đến, không được công nhận hay được hưởng “đặc ân” nào. Đó là thực tại chua cay của những con người dám hy sinh thân mình cho lí tưởng cao đẹp giờ bị xã hội lãng quên! Phải chăng từ thực trạng của cuộc sống thời hậu chiến, nhà thơ đã khái quát lên những câu thơ về tình đời tình người, suy ngẫm về những vị chua ngọt của cuộc đời. Bài Trái táo nhà thơ nhắc tới vị chua: Chua - ngọt - Chua là một vòng tròn có thật. Con người phải nếm vị chua – tức những gian khổ những khó khăn của cuộc sống thì mới trải nghiệm được ruột táo là tình vị tha vừa đắng lại vừa bùi, nhưng đôi khi cái ngọt ngào cũng đáng sợ không kém:
Có một thời ở rừng, lúc đói phải lấy rau rừng thay cơm
Người ta nhắc nhau: phàm những lá có vị chua đều ăn được cả
Thì ra vị chua còn là yên ổn, lành lặn…
           - Này quả chín đỏ, ngọt lừ, coi chừng đấy!
                         A, thì ra cái ngọt còn phải dè chừng, cái chua không đáng sợ
(Trái táo)
Từ những chiêm nghiệm, nhà thơ hiểu thêm về bản thân mình, về cuộc sống hiện tại. Chiến tranh đi qua, cuộc sống trở về với hoàn cảnh bình thường. Thời thế đã thay đổi, con người sống, làm việc theo cung cách mới. Bao nhiêu quan hệ mới đặt con người vào thế ứng xử, lựa chọn. Nhận thấy những thay đổi và phức tạp của cuộc sống mới, người lính ba mươi năm trời cầm súng ấy đã băn khoăn biết bao:
Ta ở trên điểm tựa
Nằm dọc, rồi nghe
Mà ngứa mắt ngứa tai
Buộc lòng ta phải nghĩ
Về: thật, giả, đúng, sai, hay, dở…
(Trên điểm tựa)
Đứng trước những ngổn ngang của đời sống, có khi nhà thơ ngỡ ngàng và não nùng bởi những lần mình bị từ chối:
Vào lúc này
Ta muốn một triệu trái bom nguyên tử nổ nhanh, nổ ngay
Vì ba lần từ chối của tài vụ
Không cho lĩnh tiền...
Và một lần từ chối của em
Mà anh cho là lừa dối
Và còn rất nhiều cái từ chối
Ta là cái gì, mà cái gì cũng từ chối?
(Nỗi buồn)
Phùng Khắc Bắc còn nhìn thấy thực tại dẫu đã hòa bình nhưng dường như đâu phải ai cũng hưởng trọn vẹn trái ngọt hạnh phúc. Bởi cuộc sống luôn tồn tại dưới những hình thức đối lập: tốt - xấu, hạnh phúc – đau khổ, công bằng – bất công…
Nhà thơ đã lên tiếng phản đối cái xấu, cái bất nhân hay những bất công trong xã hội qua tập thơ “Một chấm xanh”.
3.5. Tập thơ mang giá trị thẩm mỹ.
Tính nhân văn là tiêu chí quan trọng hàng đầu của tiêu chí thẩm mỹ. “Một chấm xanh” của Phùng Khắc Bắc giàu giá trị nhân văn và vì thế cũng mang tính thẩm mĩ cao. Trong bất kỳ xã hội nào, giá trị thẩm mỹ cũng nhằm tới việc “nhân đạo hóa” đời sống xã hội. Phùng Khắc Bắc viết nhiều về người lính và chiến tranh, về hiện thực đời sống hay triết lí về lẽ sống – chết ở đời. Những tác phẩm này phần lớn có khả năng trực tiếp gợi ra những khoái cảm thẩm mỹ trong sáng, những tình cảm nồng nhiệt, tốt đẹp, niềm tin yêu vào con người và cuộc sống. Khi đọc tập thơ, mấy ai trong chúng ta không phẫn nộ, lên án cuộc chiến tranh tàn bạo và không khỏi khâm phục, tự hào trước phẩm chất tốt đẹp của người lính. Và bùi ngùi làm sao trước những thắc thỏm lo âu của người mẹ có con ra chiến trận:
“Mẹ chờ hết thời loạn li
Con đi
Có lúc vọng lại tiếng đồn buồn
Lời nói mẹ bỏ ngoài tai nhưng trong bụng bồn chồn.
Mẹ chờ
Mẹ tin ngày hòa bình sẽ đến.
Con có về không?
Đó là câu hỏi không thể tự dối lòng
Cứ lấp lửng một mối lo chiến tranh
Không dám nghĩ đến sự nguyên lành
Chỉ mong con đừng mất.
(Ra đi)
Sinh ra và lớn lên trong thời bình, ta khó có thể hiểu và hình dung hết được nỗi lo lắng, bồn chồn… của người vợ, người mẹ có chồng hoặc con đang ở nơi tuyến lửa. Chiến tranh là đồng nghĩa với chết chóc, mất mát, đau thương. Chiến tranh đã cướp đi của con người tất cả: người thân, gia đình, tuổi trẻ và cả tình yêu thương nên họ “không dám nghĩ đến sự nguyên lành” của người ra trận mà chỉ mong sao đừng mất ở chiến trường là đủ, là may mắn. Đoạn thơ mang đến cho ta nhiều thương cảm và có cái nhìn sâu sắc hơn về số phận của những con người thời chiến. Nhiều bài trong “Một chấm xanh”, tác giả miêu tả rất chân thực sự khốc liệt của chiến tranh cũng như những đau thương mất mát mà người dân phải gánh chịu. Chính những mất mát đau thương đó là dấu ấn bi tráng trong cuộc đời người lính và của mỗi con người Việt Nam. Việc tả thực này cũng mang lại giá trị thẩm mĩ cho tập thơ.
Một chấm xanh của Phùng Khắc Bắc có sự hài hòa thống nhất giữa nội dung và hình thức. Ta bắt gặp nhiều câu thơ với những ý tưởng lạ, lối so sánh táo bạo, cách diễn đạt mới mẻ:
                Những chiếc bia không có mặt không có mồm
               Có chân không có tay
               Cứ đứng lặng mặc ta soi đuốc đèn đom đóm
               Những cây nhang đầu đen, nhọn
               Lửa đom đóm không thắp lại được mùi thơm.
(Trước mộ em trai ở nghĩa địa Hà Lầm)
Những ngôi nhà như những bộ hài cốt mai táng trong không gian
Những hốc mắt – những ô cửa sổ
Những vòm miệng – cánh cửa môi nát rữa
Khẳng khiu xương sắt chơi vơi
                                       (Những ngôi nhà đứng nghiêng)
Những câu thơ ấy thật giàu tính biểu cảm và tính hình tượng. Đây là một trong những tiêu chí chuẩn mực đặc thù để đánh giá giá trị thẩm mỹ của tác phẩm văn chương. Nó mở ra khả năng gợi mở, đánh thức trí tưởng tượng, liên tưởng, so sánh... của người đọc và mang đến những sắc thái khác nhau cho cảm xúc thẩm mỹ.
Giá trị thẩm mỹ của tập thơ được khẳng định một phần nhờ vào tư tưởng nghệ thuật của tác giả thể hiện trong tác phẩm. Tư tưởng nghệ thuật không hiện lên ở những dòng chữ mà hiện lên ở đằng sau những con chữ. Tư tưởng nghệ thuật bộc lộ cách nhận thức, phản ánh cuộc sống hiện thực một cách đặc thù của Phùng Khắc Bắc. Theo nhà thơ thì giữa cõi âm và cõi dương có sự tiếp xúc và chạm nhau, giữa sống và chết không có gì khác nhau mấy. Các từ “sống” và “chết” , “cõi âm” và “cõi dương” thường xuất hiện trong thơ của ông. Phải chăng trong hơn ba mươi năm quên mình chiến đấu nhà thơ thấy được khoảng cách giữa sống và chết trong chiến tranh chỉ gần nhau trong gang tấc trong khoảnh khắc, trong chớp mắt. Do vậy mà trong các sáng tác của mình, nhà thơ luôn bị ám ảnh bởi “sống và chết”, “cõi âm và cõi dương”, “ làng âm và làng dương”, “thế giới âm và cõi trần”…
 “Sống và chết khác gì mấy đâu
Người chết hóa linh thiêng
người sống phải sở cầu…”
(Trước mộ em trai ở nghĩa địa Hà Lầm)
“Trong cái làng âm
Người bốn ngàn năm, nằm chung cùng người chưa đủ tháng
Trên cái làng dương
Người người nhường nhau đất sống”
(Trở về miền đồi)
Điều này cũng góp phần khẳng định giá trị thẩm mỹ của tập thơ. Nó thể hiện sự sáng tạo thẩm mỹ độc đáo, đầy cá tính của người cầm bút. Đọc thơ của Phùng Khắc Bắc có những câu thơ gần như văn xuôi, nội dung rất trong sáng, “minh bạch”. Nhưng đằng sau sự “minh bạch” ấy là những “rắc rối đến khôn cùng”. Những rắc rối ấy thể hiện được tính cá biệt, tính riêng, phẩm chất thẩm mỹ của ngòi bút Phùng Khắc Bắc.

4. Kết luận chung

            Các nhà thơ sau năm 1975 có ý thức sâu sắc khi đưa thơ trở về với những cảm xúc gần gũi, chân thực hay nỗi niềm riêng tư của con người trong trạng thái đời thường. Phùng Khắc Bắc cũng vậy. Thơ ông không chỉ ngợi ca những vẻ đẹp, những mặt tích cực của cuộc sống mà còn trăn trở, suy ngẫm về nhiều vấn đề phong phú phức tạp của đời sống đang diễn ra. Nó còn chứa cả tâm hồn đầy bí ẩn của con người trước cuộc sống với tinh thần tôn trọng sự thật và hướng đến giá trị nhân văn.
Tập thơ “Một chấm xanh” chất chứa tất cả những tâm tư tình cảm, nỗi niềm ngổn ngang, những âu lo khổ hạnh cùng những đau đớn hướng thiện của Phùng Khắc Bắc. Bằng cái nhìn tỉnh táo và giàu màu sắc chiêm nghiệm, nhiều thi phẩm Phùng Khắc Bắc đã thể hiện một cách sâu sắc hiện thực đời sống trước và sau chiến tranh, không né tránh việc nói đến những bất công xã hội. Đây là những cảm hứng hiếm khi xuất hiện trong thơ 1945- 1975, khi mà số phận dân tộc và số phận cá nhân hòa làm một, cái tôi và cái ta hoàn toàn thống nhất.
Như những nhà thơ sau 1975, Phùng Khắc Bắc đã có một độ lùi cần thiết để nhìn về cuộc chiến bằng cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn. Chiến tranh không chỉ được nhìn từ mặt trước mà còn được nhìn từ phía sau với bao nỗi đau nhức nhối trĩu nặng, bao vết thương khó lành. Chất giọng xót xa, nỗi buồn được nói nhiều trong thơ thể hiện chiều sâu ngẫm ngợi của nhà thơ về thế thái nhân tình trong sự chuyển động không ngừng của lịch sử. Đọc thơ Phùng Khắc Bắc, đọc kỹ, ta tự hào vì nhà thơ đã gặt hái được những bài thơ hay viết về chiến tranh, về tình yêu và cuộc sống đời thường, về lẽ sống chết ở đời. Những trải nghiệm cá nhân cùng những suy tư mang tính khái quát cao của ông đã góp thêm tiếng nói cho thơ ca giai đoạn này.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2004.
2. Phùng Khắc Bắc, Một chấm xanh, NXB Quân đội nhân dân, 2001.
3. Nguyễn Lâm Điền, Bài giảng dành cho học viên cao học: Chủ nghĩa nhân văn trong văn học Việt Nam, Đại học Cần Thơ, 2010.
4. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007.
5. Hoàng Ngọc Hiến, Những ngả đường vào văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006.
6. Đỗ Đức Hiểu - Nguyễn Huệ Chi - Phùng Văn Tửu - Trần Hữu Tá (chủ biên), Từ điển văn học (Bộ mới), NXB Thế giới, Hà Nội, 2003.
       7. Lê Thiếu Nhơn, Văn chương nết đất, NXB
8. Trần Đình Sử, Văn học và thời gian, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
9. Vũ Dương Quỹ, Những ấn tượng văn chương, tập 2, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2003.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét