1. Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm.
1.1. Tác giả
Phùng Khắc Bắc (1944-1991), quê xã
Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây, sau chuyển lên xã Dĩnh Khế, thị xã Bắc
Giang, tỉnh Bắc Giang. Ông đi bộ đội từ 1966 đến 1988, sau đó giải ngũ với quân
hàm đại úy rồi chuyển sang làm phó văn phòng Hội Nhà văn Việt Nam. Viết văn và
làm thơ đã lâu nhưng khi còn sống, thơ Phùng Khắc Bắc chưa một lần in trên mặt
báo. Viết rồi để đó, không đọc cho bạn bè nghe, không công bố, không ồn ào. Mãi
sau khi mất vì bị căn bệnh nhiễm trùng máu, bạn bè và đồng nghiệp của ông biên
soạn lại các tác phẩm dựa trên bản thảo dang dở.
Sinh thời, Phùng Khắc Bắc là một cây
bút cần mẫn thuộc về bóng tối, luôn đứng ngoài danh vọng. Nhà thơ sống
khép kín, viết giữa câm
nín, khắc khoải, xót xa. Cũng may, những câu chữ trĩu nặng ấy được vợ ông – bà
giáo Nguyễn Thị Minh Tuất gìn giữ cẩn thận đến ngày công chúng ồ lên ngạc
nhiên, lần lượt chứng kiến NXB Quân Đội Nhân Dân ấn hành tập thơ “Một chấm
xanh” vào năm 1991, tập truyện “Chiều xuân nắng hanh” vào năm 1995
và tiểu thuyết “Đời thường” vào năm 2001. Trong đó tập thơ Một chấm
xanh đạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, tiểu thuyết Đời
thường đạt giải thưởng Cuộc
thi tiểu thuyết Hội Nhà văn Việt Nam (1998-2000).
1.2.
Tập thơ “Một chấm xanh”
- Thời điểm sáng tác: Một số ít bài thơ tác giả có ghi ngày tháng sáng
tác, hầu hết là vào năm 1984-1985, còn nhiều bài không rõ thời gian nào. Toàn tập
thơ gồm 28 bài. Phần lớn những tác phẩm Phùng Khắc Bắc viết đều là vô đề, đầu đề
nhiều bài in trong tập thơ là do các đồng nghiệp biên soạn của ông đặt ra.
- Nhan đề:
Bạn bè đồng nghiệp biên soạn đã lấy “ký hiệu” đời ông để đặt tên cho tập thơ.
Cuộc đời Phùng Khắc Bắc đúng như thơ tác giả đã giãi bày, tâm sự:
Ký hiệu của
đời tôi là một chấm xanh ngăn ngắt
Ký hiệu của
thơ tôi là sự minh bạch trong rắc rối đến khôn cùng.
Thế mới
là tôi
Thế mới
là đời
Thế mới
là thơ
Tất cả
hòa nhập lại như ánh sáng trộn cùng bụi.
Thật ít
có người làm thơ nào lại im lặng trắc ẩn giống như Phùng Khắc Bắc. Trong thầm lặng,
ông cầm bút như món nợ ân nghĩa phải trả cho đồng đội, như món nợ trăn trở phải
trả cho chính mình, như tâm niệm “mừng thay, vẫn còn nguyên những giọt nước
mắt trong lòng”.
- Nội dung:
Thơ ông là sự đối thoại giữa con người và thiên nhiên, vũ trụ, sự đối thoại tiếp
xúc giữa cõi âm và cõi dương. Trong tập thơ có những bài nói về nhân tình thế
thái của con người đương đại hay nói về cõi chết với cái nhìn sâu sắc linh
thiêng. Thơ ông cũng thể hiện tình yêu quê hương tha thiết, tình cảm chân thành
trong tình yêu.
- Nghệ thuật: Đa số các bài thơ được viết theo
thể tự do, ngôn ngữ thơ giàu sức gợi. Đặc biệt, ngôn ngữ kể xuất hiện khá phổ
biến phù hợp với tâm trạng muốn được giãi bày hay hoài niệm. Giọng điệu thơ có
lúc trầm tư triết lí về các vấn đề cuộc sống, có lúc tự vấn chân tình trước những
gì đã qua. Nhiều bài viết về chiến tranh, về người lính đã cho thấy bút pháp
tinh tế và cái nhìn tỉnh táo của nhà thơ.
2.
Quan niệm về chủ nghĩa nhân văn
Từ sau năm 1986 khái niệm chủ nghĩa nhân
văn được đề cập ngày càng nhiều hơn trong nghiên cứu và phê bình văn học. Thật
ra thì chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm quá mới (như khái niệm
thi pháp) đối với văn học Việt Nam. Ðể có cái nhìn đầy đủ về chủ nghĩa nhân văn
cũng như những biểu hiện của nó trong văn học việt Nam, chúng tôi xin được nêu
lên một số quan niệm về chủ nghĩa nhân văn:
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”: Xét ở cấp độ
thế giới quan thì chủ nghĩa nhân văn là một hệ thống những quan điểm, tư tưởng,
tình cảm về các giá trị con người, đó là trí tuệ, phẩm giá, sức mạnh, tâm hồn
và cả hình thể; hay nói khác đi là cái
nhìn về con người ở nhiều phương diện và bao hàm cả cách đánh giá. Còn xét ở cấp
độ lịch sử thì chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu văn hóa, tư tưởng vì quyền lợi
con người cá nhân: giải phóng con người, ngợi ca con người, đề cao những khát vọng,
sức mạnh tiềm năng của con người.
Trong khi đó, “Từ điển văn học” lại cho rằng: Chủ
nghĩa nhân văn là một hệ thống quan điểm triết học, đạo đức, xã hội,… coi con
người là một thực thể trần thế gắn liền với xã hội, xem con người là trung tâm
của thế giới, của xã hội.
Hồ Chí Minh quan niệm: chủ
nghĩa nhân văn chính là lòng khoan dung, độ lượng của con người đối với con người.
Theo Võ Nguyên Giáp (khi nói về Hồ Chí Minh), đó là lòng yêu thương con người gắn
với lòng tin không bờ bến và tuyệt nhiên nó không phải là lòng thương hại. Giáo
sư Ðặng Thai Mai thì lại cho rằng: đó là một hệ thống tư tưởng lấy cõi người và
con người làm trung tâm. Có nghĩa là con người là trung tâm của mọi vấn đề, lấy
con người làm thước đo cho mọi giá trị. Vonghin khẳng định: Chủ nghĩa nhân văn
phải bắt nguồn từ thực tế đời sống, phục vụ nhu cầu, khả năng trần thế và những
nhu cầu ấy phải được thỏa mãn.
Mác quan niệm: Chủ nghĩa
nhân văn là yêu cầu kính trọng con người và tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao
năng lực, quyền sống của con người.
Từ một số quan điểm như trên có thể
khẳng định: Dù xem chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu văn hóa, tư tưởng hay là
một hệ thống quan điểm triết học thì chủ nghĩa nhân văn đều hướng đến việc giải
phóng con người, xem con người là mục đích cao nhất trong đời sống và sự phát
triển của xã hội. Nó đánh giá, nhìn nhận một cách đúng đắn về năng lực con người
để từ đó tạo mọi điều kiện cho việc phát huy tối đa năng lực vốn có của con người.
Vôngin: chủ nghĩa nhân
văn là toàn bộ những quan điểm đạo đức, chính trị bắt nguồn từ thực tế của đời
sống con người với những nhu cầu khả năng trần thế và những nhu cầu khả năng ấy
phải được phát triển đầy đủ, phải được thõa mãn. Từ quan niệm của Vôngin ta nhận
thấy chủ nghĩa nhân văn không chỉ là chính trị, triết học mà nó là nhu cầu, là
khát vọng của con người đáp ứng đến tận cùng yêu cầu của con người là được “thỏa
mãn”.
Trên cơ sở các vấn đề, có
thể khái quát mấy điều về chủ nghĩa nhân văn:
Thứ nhất, chủ nghĩa nhân
văn là khái niệm để chỉ một trào lưu triết học văn hóa, văn nghệ mang tính chất
tiến bộ hướng đến việc giải phóng con người, giúp con người tiến bộ thoát khỏi
những đè nén về tinh thần và sự kềm chế con người.
Thứ hai, chủ nghĩa nhân
văn hướng đến con người, xem con người là mục đích cao nhất trong đời sống và sự
phát triển của xã hội (mục đích là vì con người)
Thứ ba, phân biệt khái niệm
chủ nghĩa nhân văn – chủ nghĩa nhân đạo – chủ nghĩa nhân bản: Trong Từ điển thuật
ngữ văn học người ta quan niệm chủ nghĩa nhân văn là chủ nghĩa nhân đạo, xem chủ
nghĩa nhân đạo như là chủ nghĩa nhân văn. Hoàng Ngọc Hiến khi trình bày chủ
nghĩa nhân đạo thì thấy chủ nghĩa nhân đạo như chủ nghĩa nhân văn bởi vì giữa
chủ nghĩa nhân đạo và chủ nghĩa nhân văn có những phần chung. Thế nhưng giữa
hai khái niệm này có những điểm khác
Nói đến khái niệm chủ
nghĩa nhân đạo thì ta hiểu rằng khái niệm này thiên về phương diện đạo đức,
luân lý, tình thương đối với con người; đau khổ, xúc động, cảm thông, xót xa với
nỗi bất hạnh của con người.
Theo T.S Nguyễn Lâm Điền
thì chủ nghĩa nhân bản nhìn con người ở góc độ triết học và tôn giáo, xem con
người không phải là thần thánh và đối xử với con người một cách khoan dung độ
lượng
Chủ nghĩa nhân văn chính
là cách nhìn, cách đánh giá về năng lực của con người. Đó là việc phát huy tối
đa các năng lực đó của con người.
Trong văn học, chủ nghĩa
nhân văn theo quan niệm Macxit nhìn nhận ở 5 điểm sau (5 tiêu chí):
Một là, con người phải là
vị trí trung tâm, phải là bình diện thứ nhất của tác phẩm. Đó là con người cá
nhân, con người ở địa vị một người.
Hai là, văn học phải quan
tâm đến khát vọng, ước mơ, lý tưởng, nỗi niềm riêng tư, những bi kịch, những lỗi
lầm của con người nói cách khác quan tâm đến toàn bộ thế giới bên trong của con
người
Ba là, văn học phải bảo vệ
quyền sống và bảo vệ môi trường tự do của con người. Quan tâm đến sự hình thành
hoàn cảnh đến năng lực của con người có thể phát triển.
Bốn là, văn học phải phản
ánh cái xấu, cái bất nhân, vạch trần bản chất của những thế lực ngăn cản, kìm
hãm sự phát triển của con người.
Năm là, một tác phẩm có
tính nhân văn thì tất yếu phải có giá trị thẫm mĩ. Chủ nghĩa nhân văn đích thực
không tách rời cái đẹp của nghệ thuật. Tóm lại, chủ nghĩa nhân văn trong quan
niệm Macxit đó là hội tụ những giá trị toàn năng của con người và được phản ánh
ở một trình độ tư tưởng thẫm mĩ của thời đại.
3. Biểu hiện của chủ
nghĩa nhân văn trong tập thơ “Một chấm
xanh” (Phùng Khắc Bắc)
Trong số những tác phẩm đã xuất bản, có
thể thấy hồn cốt của Phùng Khắc Bắc đều nằm ở “Một chấm xanh”. Tập thơ đã khắc họa được đậm nét chân dung của chính tác giả. U trầm,
từng trải, có phong cách riêng khó lẫn với người khác. Đọc tập thơ Phùng Khắc Bắc,
người đọc hình dung ra cuộc đời của một người lính đã trải qua chặng đường chiến
tranh. Thơ ông như một tấm lăng kính soi rọi được những vẻ đẹp, những gian khổ
hy sinh, những góc khuất riêng tư mà nhà thơ đã trải qua, chiêm nghiệm. Với ý
nghĩa đó, tập thơ mang giá trị nhân văn sâu sắc và có chỗ đứng xứng đáng trên
văn đàn.
3.1.
Đặt con người lên vị trí trung tâm và bình diện thứ nhất.
Trong
toàn bộ tập thơ, điều mà Phùng Khắc Bắc quan tâm và xoáy sâu thể hiện không gì
khác hơn chính là con người. Nhà thơ khám phá, viết về con người với những tình
cảm chân thật, những trăn trở suy ngẫm trước thời cuộc. Ông đi sâu thể hiện đời
tư của cá nhân con người bình thường có đời sống riêng, thân phận riêng đầy
thăng trầm. Mọi sự nhận thức hay suy nghiệm về lẽ đời, tình đời cũng đều vì sự
tiến bộ của con người.
Điểm
sáng đầu tiên ta ghi nhận được đó là sự đánh giá cao của nhà thơ về sự hình
thành và tồn tại của con người trên trái đất. Phùng Khắc Bắc rất trân trọng con
người bởi con người chính là tinh hoa của cuộc đời: Đất phải triệu triệu lần
quay, ánh sáng phải triệu triệu lần chiếu, mưa phải triệu triệu lần lẽo đẽo giọt
ngắn giọt dài/ Chỉ như thế mới tạo nên con người”. Từ đó nhà thơ chiêm nghiệm
về lẽ sống ở đời của mỗi người chúng ta:
Thì ra để thành một con người như hôm nay, không phải là đơn giản như
ta nhìn thấy trong nhà hộ sinh.
Cái cửa bước ra làm người trông đơn sơ nhỏ bé
Cái cửa để bước ra khỏi kiếp người, còn giản dị và dễ dàng hơn
Nhà hộ sinh và nghĩa địa là cái khung chân dung thời gian của mỗi con
người.
Vượt ra ngoài cái khung ấy là gì?
Nếu có thể nói được bằng ngôn ngữ của người, tôi bảo:
Đó chính là tình yêu người khác ngoài mình...
(Không đề I)
Vấn
đề được đặt ra ở đây vô cùng ý nghĩa. Con người được sinh ra hay chết đi vốn rất
dễ dàng nhưng sống sao cho đúng nghĩa một người mới là điều khó khăn. Để vượt
ra được cái khung chân dung thời gian ấy,
mỗi người cần có tình yêu người khác,
nghĩa là sống không chỉ cho riêng mình, vì mình mà còn sống vì người khác, sống
bằng tình người chan chứa yêu thương. Và rồi, nhà thơ ước muốn cho tất cả mọi
người trên cõi đời này được sống bình yên, hiểu nhau hơn để hạnh phúc hơn. Những
lời kêu gọi núi và biển hãy bên nhau, nhẫn nhịn sống vì nhau cũng chính là sự
quan tâm sâu sắc của Phùng Khắc Bắc về con người trên trần thế:
Hãy yêu nhau, thương nhau
Đừng hùng hổ, cũng chớ lạnh lùng
Hãy là cá, là chim, là rong rêu, là con người – biết sống
Dù bão núi, gió gièm, cũng giữ lòng khỏi động
Dù nắng xiên trăng chếch cũng giữ bóng đừng nghiêng
…Cứ lẳng lặng hiền hòa biết sống cho nhau
(Núi và biển)
Nhà
thơ đang kêu gọi và đánh thức mọi người hãy giữ gìn hạnh phúc, phải biết trân
trọng, nâng niu những gì mình có được. Không dừng lại ở đó, Phùng Khắc Bắc còn
mong muốn con người sống có ích và sống tự do thoải mái. Có lúc ông vùng vẫy, đòi được tự do dù chỉ
là một phút, một lời hay một chữ để được sống một cách chính đáng làm những gì
mình thích, mình nghĩ và hoàn toàn không có sợi dây nào của cuộc đời trói buộc:
Hãy cho ta một lần tự do
Dù ngắn ngủi nhưng một lần cũng đủ
Một giờ, một phút, một lời hay một chữ
Nhưng đích thực là tự do
Bởi khó khăn thay trong cuộc đời này
Từ khi sinh nhân loại
Ai cũng đi tìm điều ấy
Và chưa một ai thấy.
(Tự do)
Đó phải là sự tự do có thật
và hiện hữu trên cuộc đời này chứ không phải mông lung ở một cõi siêu nhiên nào
đó. Phùng Khắc Bắc không chỉ bày tỏ ước muốn cho riêng mình mà cho tất cả mọi người nói chung. Viết cho con người và
vì con người rõ ràng vần thơ thấm đẫm tinh thần nhân văn.
Trong những trang
thơ, Phùng Khắc Bắc còn tôn vinh và ngợi ca vẻ đẹp của con người. Đó là vẻ đẹp
của nhân cách, của sự hi sinh thầm lặng. Ngòi bút tác giả thật giàu cảm xúc khi
nói lên sự hi sinh lặng lẽ của những người mẹ, những người phụ nữ có chồng con
ra trận:
Giặc đến mấy
chục năm nay
Lúc vắng
cha, là lúc tan nhà
Lúc vắng
con nhà không còn
Một mình mẹ,
gồng gánh, tảo tần, lặn lội đằng đẵng một chiều dài không gian lặp đi lặp lại
hai màu sớm - tối, trên một không gian ruộng, chợ, làng, nhà…
Thế mà vẫn
lớn hơn, không gian và thời gian của con và của cha đi xa.
(Ra đi)
Còn đây là nét đẹp của
người lính: không ngại gian khổ, khó khăn, hi sinh tình nhà không toan tính để
phục vụ Tổ quốc:
“Ta- đã ba mươi năm xa
Ba mươi năm nằm hầm
Ba mươi năm làm mục tiêu cho những họng súng
Của ba kẻ thù lăm lăm…
Nhà dột
Con dốt
Vợ xa
Mẹ già
Chỉ vì ta
Nhưng ta chưa một lần kêu khổ
Cũng chưa một lần vì những cái đó mà sợ
Chỉ sợ duy nhất là mình không dám quên mình đi.”
(Ngày
hòa bình đầu tiên)
Trong
Đo bằng
chiều cuộc đời, ông khâm phục biết bao hình ảnh một người
lính đã sống và cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho đất nước:
Tôi đến bờ biển Cồn Thoi
Gặp một người lính đã bạc đầu
Anh đã lấy tuổi sáu mươi để đo những cánh rừng, đo độ sâu của
những hố bom, đo chiều rộng những sân bay, đo chiều cao của những cao ốc… đo từ
Nam lên Bắc, đo từ Đông sang Tây.
Và hôm nay anh cũng đang còn rất bận.
Người lính trong
thơ Phùng Khắc Bắc không chỉ biết hi sinh trong chiến tranh mà còn trong hòa
bình nữa. Cả cuộc đời cống hiến không mệt mỏi, người lính ấy không tiếc gì, chỉ
lo mình không đủ thời gian và sức lực để
làm đất nước được rộng thêm ra. Vẻ đẹp tâm hồn người lính thật rạng ngời!
Đọc "Một chấm
xanh", ta thấy cộm lên những bài thơ với những đoản khúc giàu trắc ẩn: Con chó đá, Không đề IV, Lời con hỏi, Trở về
miền đồi… Bài Con chó đá dẫn nhà thơ tới kết luận: “Ta phải là ta cả phần xác lẫn phần hồn”. Những câu thơ Phùng Khắc Bắc
đôi lúc khiến cho người đọc phải giật mình, nghiêm túc nhìn nhận và soi rọi lại
mình:
“Trong đời nghèo và trong chiến tranh
Con người vẫn tìm ra
một lối rất chật
Để chui qua
Có người rất thật thà
Sung sướng mừng vui về điều đó
Và quên đi một điều
Ta đã bị thu mình rất nhỏ”.
(Không đề
XI)
Hay:
Mặt lá nhìn ngửa
Mặt người nhìn ngang
Mặt loài thú lang nhìn xuống
Khi ta còn nhìn lên kính ngưỡng
Khi ta còn cúi xuống khẩn cầu
Ta vẫn tự tạo ra mình bằng những
dáng đau
(Trở về
miền đồi)
Phùng
Khắc Bắc mạnh về suy tưởng cùng những trầm ngâm sốt ruột. Đây chính là những
dòng trăn trở của nhà thơ về nhân cách và khí tiết của con người. Ông băn
khoăn, đau đáu và lúc nào cũng canh cánh bên lòng nỗi niềm: làm sao để con người
đứng thẳng mình, giữ vững mình và có điều kiện để phát triển tốt đẹp. Cái nhìn tỉnh táo giàu chất suy tư ấy
chính là bề ngoài của một nỗi đam mê lớn bên trong.
Với những điều chiêm nghiệm và những
dòng suy tưởng thênh thang, nhà thơ nhận thấy cuộc đời người thật ngắn ngủi.
Cái vòng tròn luân hồi của cuộc sống con người được bắt đầu từ nhà hộ sinh và kết
thúc cuộc đời là ở nghĩa địa. Ông cũng
suy ngẫm nhiều tới lẽ sinh tử trong kiếp người, tạo vật. Những bài như Ta chết đây, Bài thơ riêng cho người chết,
Trước mộ em trai ở nghĩa địa Hà Lầm, Biển hối thương, Không đề I… tác giả
nhìn thấy những tấm bia "có chân
không có tay" đứng lặng phắc trong màn đêm nhập nhoạng. Trước bao hình
ảnh kinh dị, Phùng Khắc Bắc tự thức tỉnh mình, tự nhận thấy một sự thật: Ta đi giữa sự công bằng tầng dưới, và sự bất
công bằng ở tầng trên. Rồi khi tới mộ người em trai, trong sự đau đớn
thương tiếc, anh lại nghe được cả tiếng nói sâu thẳm vọng lên từ đất:
“ Anh hãy sống
sống dần dà đừng vội
Bởi,
chúng ta còn phải chết nhiều lần.”
(Trước mộ em trai ở nghĩa
địa Hà Lầm)
Hẳn viết về cái chết,
Phùng Khắc Bắc muốn nhắc nhở mọi người hãy sống lương thiện, tốt lành hơn.
Như vậy, ngòi bút của Phùng Khắc Bắc
đã chạm đến những vấn đề căn cốt của đời sống con người (tự do, hạnh phúc, nhân
phẩm, lương tri..). Đặt con người ở vị trí trung tâm, nhà thơ suy ngẫm về cái
được, cái mất, hạnh phúc và đau khổ của mỗi người trong cuộc đời. Phần con người
đích thực được thể hiện sinh động qua những trang viết đầy cảm thông.
3.2. Khi tái hiện đời sống
con người, nhà thơ quan tâm đến khát vọng, ước mơ, những nỗi niềm riêng tư, kể
cả những bi kịch hay lỗi lầm của con người.
Đọc
"Một chấm
xanh" ta nhận ra con người trong thơ Phùng Khắc Bắc là con
người của cá nhân, của đời thường. Con người ấy có những tâm tư, tình cảm có ước mơ thầm kín,
có những xúc cảm rất “người”. Con người
ấy sẵn sàng không vào đại học mà ra đi cầm súng gìn giữ quê hương nhưng lúc
chia tay người thân vẫn rất day dứt, không giấu được nỗi buồn xa xót (Ra đi). Con người cá nhân có tình yêu
đôi lứa chân thành, mãnh liệt, khát khao (Thân
cọ đỉnh đồi, Yêu, Âm thầm, Từ hai phương trời, Biển thức…). Con người có
lúc vui, lúc buồn, lúc lại thấy cô đơn trơ trọi… (Ngày hòa bình đầu tiên, Cô đơn, Nỗi buồn, Ta chết đây…). Đó là lẽ tất yếu
phù hợp với tâm lí con người trong cuộc sống. Tất cả những điều riêng tư cá
nhân, những ngõ ngách trong tâm hồn hay khát vọng thầm kín ấy được giãi bày rất
chân tình, thấu đáo.
Trong "Một
chấm xanh", tác giả viết
về với đời sống riêng của cá nhân mình, với những ấn tượng, những nỗi niềm riêng.
Đây là tâm trạng xót xa của người con trước khi ra chiến trường,
sự giày vò của người lính trẻ khi soi thấu bốn cái nhìn của người cha, người
bà, người mẹ, người yêu lúc tiễn đưa. Cái
nhìn của người cha nghiêm nghị mà soi thấu:
“Cha tôi vắng mặt
Người đã tiễn tôi bằng
cái nhìn như vuốt vào đôi mắt
Đó là lúc Người khuyên tôi vào đại học, mà tôi
quyết ra đi”.
Cái
nhìn của bà nội trìu mến mà luân lạc:
“Bà nội ngồi nơi cửa bếp
Cái nhìn và cái gật đầu
của bà là lời vĩnh biệt
Bà chết, sẽ vắng mặt tôi”.
Cái
nhìn của người mẹ bao dung mà ái ngại:
“Mẹ không bước ra ngoài ngưỡng cổng
Chỉ có ánh mắt mẹ là vượt qua cả cái đích đi của
con
Khúc lưng cong của con đường làm cho con ngoái
lại
Và cái nhìn lệch hướng với đích đang đi”.
Cái
nhìn của người yêu buồn thương mà ân cần:
“Em vắng
Nhưng cái nhìn của em vọng từ xa lặng
Để chỉ mình anh được ngắm em nhiều”.
Bốn
cái nhìn nôn nao “chợt vụt vạt nắng phân
ly tê tái, chợt òa cơn mưa hạnh ngộ mòn mỏi”. Bốn cái nhìn bồn chồn từ bài
thơ “Ra đi” khơi gợi phía độc
giả những run rẩy mãnh liệt.
Nào là sự suy tư về nỗi đau chiến tranh, nhớ
thương mẹ già ngày đêm vất vả (Trở về miền đồi). Và còn nữa tâm trạng
buồn vui hòa lẫn của người lính khi trở về nhà trong “Ngày hòa bình đầu tiên”. Nhìn
mái nhà mẹ thủng lỗ chỗ, mưa dột, nắng xiên người lính lần đầu tiên giật mình.
Bởi không phải vì bom đạn hay na-pan, phôt-pho của kẻ thù bắn trúng mà vì đứa
con trai đi xa, sự chờ đợi nặng nề giọt xuống đã xuyên thủng mái nhà mẹ thành
những lỗ to lỗ nhỏ khác nhau:
“Nắng mưa lọt vào sau
Xuyên
Xối
Những sợi nắng, những
sợi mưa nếu có thể nối, cũng chỉ dài bằng một phần sự mong đợi
Và những hạt nắng, những
hạt mưa nếu đem xếp lại, có thể cao hơn mọi trái núi.
Mười năm, cũng chỉ là
thoáng qua,
Vì tuổi mẹ sáu bẩy lần
hơn,
Mẹ vẫn nói đời mình
như nắng trận mưa cơn...
Mái rạ của mẹ cũng
không thủng lỗ chỗ
Nếu con chỉ đi ra đồng,
ra chợ
Chứ không phải đi vào
chiến tranh.”
(Ngày hòa bình đầu tiên)
Mái nhà như có mắt nhìn khiến
người lính ấy dâng lên nỗi buồn khó tả. “Nỗi buồn của anh không phải trong chiến tranh”
mà vì những xốn xang trước cảnh mẹ già nua vất vả. Anh là niềm tin, lẽ sống, là
chỗ dựa của gia đình mà lại để những gánh nặng mưa nắng dồn lên đôi vai còm cõi
của mẹ già. Trước cảnh nhà dột, người lính cảm thấy những lỗ thủng "thành những mũi tên, thành những viên
đạn", bắn tiếp về phía mình:
Những
sợi nắng xuyên qua nhà mình
Thành những mũi tên,
Thành những viên đạn,
Bắn tiếp vào anh không
gì che chắn
Phải nhận tất cả,
Vẫn anh.
Trong những cảm xúc ngày
trở về, có lẽ hơn hết chính là niềm hạnh phúc bên mâm cơm đạm bạc. Hạnh phúc thật
bình thường, giản dị nhưng phải trải bao gian khổ hy sinh người lính mới giành
lại được:
“Mẹ giục
- Ăn cơm, con
Hòa bình trong canh cua, mồng tơi, cà
Và
Mùi ổ rơm”.
Đặc
biệt trong tập thơ ta còn bắt gặp tình cảm riêng tư của con người: tình yêu đôi
lứa. Trong tình yêu, Phùng Khắc Bắc có những vần thơ chân thành, tha thiết. Những
bài thơ viết về tình yêu như Yêu, Nỗi nhớ,
Từ hai phương trời, Thân cọ đỉnh đồi, Tại sao, Một đôi trống mái,… luôn làm
xao động lòng người. Khi yêu, tác giả sống trong tâm trạng bồn chồn, khắc khoải:
Nghe tim ta thắc thỏm
Yêu mất rồi em ơi
Tìm đâu ra nơi chốn
Trái đất chật mất rồi
(Yêu)
Có khi như một kẻ
lữ hành cô độc, yêu đấy mà vẫn không tìm thấy đích:
Nhưng,
yêu mà buồn mà sợ.
Ngỡ ngàng trước
ngã ba.
Lòng muốn gần nhưng chân muốn trốn xa.
Hồn mới mẻ mà mặt sầu cũ nát.
(Yêu)
Nhưng hơn hết người
đọc nhận thấy ở Phùng Khắc Bắc sự sâu nặng, trân trọng tình yêu. Nhà thơ bày tỏ
chân thực ước muốn được gần gũi người mình yêu thương cũng như những hy sinh,
phiền muộn mà mình gánh chịu khi xa cách người tình:
Yêu nhau mà phải xa nhau
Như người kiếp trước kiếp sau đợi chờ...
Người dưng ai nỡ ngẩn ngơ
Chỉ yêu mới thấy bến bờ là xa
Ước gì trái đất của ta
Nhỏ như hạt tấm
để xa hết buồn.
(Không
đề II)
Khi
nói về tình yêu, Phùng Khắc Bắc thể hiện đầy đủ những cung bậc tình cảm. Những
lúc xa nhau người
lính ấy sống trong tận cùng của nỗi nhớ. Có lúc đó là nỗi
nhớ đằm thắm, lắng sâu:
Em đi
Anh nhớ,
Anh nhìn cây,
Lá bay
Mà không nhận ra
màu của gió.
(Nỗi nhớ)
Có lúc là nỗi nhớ day dứt, triền
miên:
Ở phương này sông
xanh biển xanh
Sao anh nhớ
Ở đâu ai mong ai
nhủ
Mà mũi cay, mà mắt
máy
Em có nhắc anh từ
phương ấy
Phương này anh
đang nhớ em.
(Từ hai phương trời)
Nỗi
nhớ rất thực và dữ dội đó là biểu hiện của tình yêu tha thiết, mãnh liệt, thủy
chung. Và cũng
như mọi người, nhà thơ khát khao được đến bến bờ hạnh phúc cùng người mình yêu
thương:
Quê anh miền trung du
Quê em miền biển
Hai phương trời như ngoảnh mặt vào nhau
Tay phải, tay chiêu chắp lại nguyện cầu
Cho hai
thành một
(Một đôi trống mái)
Ông
luôn mong muốn có được một tình yêu cao cả vượt lên trên tầm cao vũ trụ “Yêu - mới thấy trái tim mênh mông hơn trái
đất/ Yêu - mới thấy một người cao cả hơn loài người”. Bởi tình yêu có sức mạnh diệu kì tiếp thêm động lực
cho con người vượt qua những khó khăn, những buồn vui trong cuộc sống. Cho nên
dầu cho có chuyện gì xảy ra thậm chí là trái đất có nổ tung, con người ấy vẫn
khao khát được yêu và sống trong những cảm xúc chân thật:
Nhưng lại muốn
thành cỏ, thành chim, thành kiến, thành sâu
Để vẫn đến với
nhau trên đất
Không biết khổ buồn,
chỉ một điều duy nhất
Là niềm vui- TÌNH
YÊU.
(Yêu)
Ông không ngần ngại bộc bạch nỗi
lòng riêng tư, ước mơ thầm kín:
Anh muốn cùng em đi ra bờ sông
Để được ngồi trên cỏ mật
Nhìn dòng chảy ngắm lòng ta cho đẹp
Mọi chuyển lưu đều mới của cuộc đời.
(Âm thầm)
Ở Phùng Khắc Bắc, thơ tình xuất
phát từ tâm trạng, cảnh ngộ riêng mình. Tác giả thổ lộ: Chúng ta yêu nhau trong âm thầm khổ đau, song những vần thơ tình của tác giả cũng rất da diết và không kém
phần dữ dội.
Thơ
Phùng Khắc Bắc còn là một sự tự vấn, chiêm nghiệm về nhân cách chân thật của
con người. Đối với ông con người không phải là hoàn thiện, bên cạnh những mặt
tích cực, tốt đẹp thì con người cũng có lúc sai lầm, có những lúc chệch hướng
trong nhận thức, trong suy nghĩ. Bởi vì đó là điều rất bình thường của những
con người bình thường. Và cũng là một người bình thường trong xã hội nên có lúc
chính nhà thơ đã mắc lỗi lầm:
“Hãy tha thứ cho anh
Hãy tha thứ điều anh
đã nghĩ.
Đừng ngạc nhiên, đừng
rẻ rúng, đừng trạnh lòng
Đó là điều anh nghĩ
chứ không phải điều anh mong
…Hãy
tha thứ cho anh
Chỉ một lần thôi
Một lần cho anh được nói
Để em hiểu anh cũng là con người trong những
con người
Thế thôi!”
(Hãy tha thứ cho anh)
Ấy là bản “kiểm
điểm” chân thành và xúc động về đời tư của một con người trước dòng chảy của
thời cuộc. Phùng Khắc Bắc không né tránh mà thẳng thắn nhìn nhận những khuyết
điểm của bản thân.
Bước qua thử thách khói lửa
đã khó, mà bước qua bề bộn đời thường còn khó hơn. Phùng Khắc Bắc dằn vặt từng
ngày sống. Nhiều khi Phùng Khắc Bắc an ủi mình bằng tâm trạng ông lão bơm xe
bên lề đường trông thấy đôi trai gái đèo nhau lướt qua sôi nổi, rằng “ta đã làm nên sắc đẹp của cả hai đứa hôm nay”,
nhưng vẫn luôn thảng thốt khi cảm thấy cô đơn đang vây bủa đến tận cùng:
Tất cả nỗi cô đơn trong ngày lạc
Tất cả nỗi cô đơn trong cơn hồng thủy
Tất cả nỗi cô đơn sau trận bom nguyên tử
Tất cả nỗi cô đơn trên con tàu vũ trụ
Không bằng nỗi cô đơn sau lời mời của người con gái đẹp bán hàng trong
chợ Đồng Xuân.
(Cô đơn)
Có
lúc ông cảm thấy như lạc lõng giữa cõi đời. Những vần thơ sau thể hiện rõ nỗi
buồn chơi vơi của chính tác giả:
Ta như lạc giữa ngã ba Đời
Có lúc đi lang thang
về đâu
không biết nữa...
Có lúc vật vờ, như hồn thiêng không nhà không cửa.
(Trứng)
Sự giãi bày chân
tình đó của cái tôi chính là nhu cầu tất yếu mang ý nghĩa nhân văn. Nhà thơ
công khai bày tỏ nỗi buồn, thể hiện những cảm nhận của cái tôi trước một thực tại
khắc nghiệt. Những câu thơ viết ra như một hình thức tra vấn không ngừng về đời
sống. Con người giàu lòng trắc ẩn, đa mang ấy đang trở về với cái tôi cá nhân,
những âu lo của đời sống thường nhật.
Thường bị đau yếu, bệnh tật, Phùng Khắc Bắc còn linh cảm thấy
cái chết đang đến với mình. Bài thơ
Ta chết đây chứng tỏ cái chết len sâu
vào mạch máu, len sâu cả vào ý nghĩ của tác giả. Bài thơ còn dòng tự thú cũng hết
sức chân tình và cảm động:
Nhà làm chưa xong
Vợ học chưa xong
Con học chưa xong
Nhiều cái chưa xong
Cả
cái chết cũng không đành lòng nhắm mắt…
Tóm
lại, con người cá nhân trong thơ Phùng Khắc Bắc hiện lên sinh động. Con người
đó có khát khao yêu thương, có những niềm vui nỗi buồn, có lo lắng, có hạnh
phúc và đau khổ, có biểu hiện của tư chất riêng, có bổn phận của một thành viên
trong gia đình và xã hội. Cũng như các nhà thơ sau 1975, cái tôi trong thơ Phùng Khắc Bắc là
cái tôi đa diện, nhiều bất an, giằng xé, hướng nội. Từ các trang viết, người đọc nghe ra một
giọng nói xót xa mà lại đầm ấm. Ngòi bút ấy đang viết cho chính mình.
2.3.
Bảo vệ quyền sống, tự do của con người, quan tâm đến sự hình thành và hoàn cảnh
sống, chú trọng năng lực con người.
Thơ Phùng Khắc Bắc còn là tiếng
nói bênh vực, bảo vệ con người để con người có những quyền cơ bản: quyền tự do,
sống hạnh phúc. Nhận thấy cuộc đời mình bị quá nhiều ràng
buộc, kềm cặp:
Ta là con thuyền bị cột vào bờ
Một chiếc neo cái, hai chiếc neo
con
Bến mênh mông, già nua như lục địa
Những ghềnh đạo đức, những đá ngầm
phong tục
NEO – BỜ - GHỀNH - ĐÁ ghìm chắc con thuyền con
(Biển hối thương)
nhà thơ không ngần
ngại nói lên ước muốn được bứt ra khỏi những sợi dây ràng rịt, muốn tự do:
“Dù gian nan
Dù chỉ một lần
Một lần thôi cũng đủ
Dù một giờ, một phút hay một lời một
chữ
Nhưng đích thực là tự do”
(Tự
do)
Nhà thơ bất chấp
tất cả để được hít thở bầu không khí tự do dù biết rằng đó là điều rất khó.
Nhưng với Phùng Khắc Bắc, tự do theo đúng nghĩa của nó dù là ít ỏi vẫn hạnh
phúc gấp ngàn lần so với cuộc sống bị trói buộc. Nói như Xuân Diệu: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt/ Còn
hơn buồn le lói suốt trăm năm”. Rõ ràng, nhà thơ khẳng định coi trọng thế
giới riêng của con người trong cuộc sống.
Ngòi bút chan chứa tinh
thần nhân văn của nhà thơ không chỉ đòi quyền tự do cho con người khi sống mà
còn nói lên ước nguyện của con người khi đã chết đi. Trong Bài thơ riêng cho những người chết,
Phùng Khắc Bắc xót xa cho những người đã nằm xuống trong chiến tranh. Về với
cõi âm, họ cũng có nhu cầu như lúc còn sống và hơn hết là mong muốn được sống
công bằng:
Những người chết sau khi lập xong tên, xúm vào nói chuyện với
nhau
Vì nhu cầu giao tiếp đến chết vẫn chưa thôi.
Họ cũng hỏi quê quán, mẹ cha, và nói lên những ước muốn sở cầu
Và họ đề bạt những những điều cần lên người có thẩm quyền
trong cõi tối đen huyền bí.
Người quyền lực nói:
Mọi việc sẽ được an bài, đâu sẽ có đấy.
Trong khi nói chuyện họ nhận ra nhau
Ai ở phía này, ai ở phía kia
Và họ cười khì, lắc đầu thoả thích
Giống như sau khi diễn kịch, mỗi người vừa sắm xong vai mình.
Phùng Khắc Bắc luôn quan
tâm, trăn trở làm sao để con người được sống hạnh phúc, công bằng, sống thật với
chính mình. Nên trong thơ ông, dù con người còn sống hay đã về với cõi âm thì
khát vọng ấy vẫn luôn âm ỉ. Phát hiện ra điều đó, Phùng Khắc Bắc chỉ ra “sự công bằng cần và phải làm ngay trên thế
gian” chứ không phải ở cõi tối đen huyền bí. Chính ở đây toát ra tính nhân
văn cao cả.
3.4. Nhà thơ phản ánh cái xấu, cái bất nhân, vạch
trần bản chất của những thế lực ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của con người.
Thơ Phùng Khắc Bắc ngoài việc suy tư trăn
trở về con người cá nhân, ông còn lên án cái bất nhân phi nghĩa, những thế lực
chà đạp, kìm hãm sự phát triển của con người. Trong tập thơ, ngòi bút Phùng Khắc Bắc đã mạnh mẽ
tố cáo chiến tranh bởi nó tàn phá quê hương, li tán gia đình, hủy diệt con người:
“ Hết cuộc chiến tranh này, đến cuộc chiến tranh kia
Thay nhau đè lên những
mái gianh
Mái gianh mùa hanh
cháy nhanh
Tường sỏi đen màu
khói.
Không thể có thời gian
dàng chỗ đứng cho những nhà tầng mái
bằng, mái ngói.
Chiến tranh như máy ủi,
Chiến tranh thù văn
minh.
Chợ cháy,
Làng cháy.
Tre, rạ,
Không kịp dựng nhà, dựng
lều
Quê hương mà ta sinh
ra và quý yêu
Khổ đau là thế
Ta cũng chỉ là một
viên sỏi nhỏ bong ra từ mảnh đất này.”
(Ra đi)
Không có sự tàn phá nào ác liệt và ghê gớm hơn chiến
tranh. “Bài thơ riêng cho những người chết” là tiếng nói phẫn nộ lên
án chiến tranh đã hủy hoại con người một cách dã man:
“Trong số những người
về sau cuộc chiến tranh
Có người còn nguyên hình
Có kẻ cụt chân, có người thì thiếu ngón,
Người thủng đầu, người xơ gan, nát ngực
Có người chỉ còn là một cục thịt,
Vì mình anh ta chịu một chùm bom B52 làm gì không tan biến”
Sự tàn phá khốc liệt đó sẵn sàng giày
xéo, chà đạp và hủy diệt con người không thương tiếc. Người tử trận nhiều vô số,
người còn sống trở nên dị dạng hoặc mang di chứng nặng nề. Những bài thơ Ra đi, Ta chết đây cho thấy những mất mát cay đắng của người thương binh sau
chiến tranh:
Đi làm đảng viên
Đi làm liệt sĩ,
Tất cả đều không thành
Chỉ là thương binh.
Thương binh không vết sứt ngoài da,
Thương binh có những vết rách trong phổi,
Được hàn lại bằng kháng sinh và tình đồng đội.
Thương binh có siêu vi trùng nằm ngủ trong gan,
Có vết đạn trong van tim, có vết loét lam nham trong dạ dày.
Và nguy hiểm
nhất là có tế bào lạ biến hình của chất độc da cam nằm lặng yên, mỉm cười thâm
trầm trong máu…
(Ra đi)
Chiến tranh làm con người ta chết tuổi thanh xuân, cái
tuổi tươi đẹp nhất mà con người đáng được hưởng. Mặt khác, nó còn để lại những
di chứng lâu dài, những “nguyên tử hơi độc
da cam” đang từng ngày gặm nhấm và hủy hoại sức khỏe, khiến con người chết
lần hồi:
“ Ta chết đây!
Và khắc giây này,
Có bao nhiêu người cùng chết
Và bao nhiêu người phục sinh
Người thương binh đến hôm cuối cùng nghĩ thế.
Và còn thêm:
Những người cùng chết chỉ nên nói và nên nghĩ
Hôm nay đúng là tuổi, là ngày, ta đi về quê tiên tổ
Còn riêng ta,
Những người cùng sinh hôm nay phải cùng biết,
Lời vĩnh biệt trối lại là:
Ta chết giữa tuổi thanh xuân
Vì một nguyên tử hơi độc da cam”
(Ta chết đây)
Những bài như Ta chết đây, Trước mộ em trai ở nghĩa địa Hà Lầm,
Bài
thơ riêng cho những người đã chết, Những ngôi nhà đứng nghiêng,… là những
suy ngẫm đớn đau của Phùng Khắc Bắc về con người, về cuộc đời. Đây vừa là tiếng
nói đanh thép, vạch trần, lên án tội ác dã man của quân giặc vừa là thông điệp bảo
vệ quyền sống con người.
Chiến tranh là hiện thân
của cái ác, cái bất nhân đã gây nên bao tai họa cho con người. Với tinh thần bất
khuất, bao nhiêu người Việt Nam đã hi sinh anh dũng, bao nhiêu người lính đã bất
chấp gian khổ và vượt lên thực tại khắc nghiệt để đổi lấy độc lập tự do. Nhưng
bước sang thời bình, những người từng nằm hầm, đội bom ấy có lúc đã phải chịu bất
công:
Chết là hết
Mọi cái đều không.
Vì ta không chết trên chiến địa
Vì vết thương này không chứng minh được ta là liệt sĩ
(Ta
chết đây)
Đoạn thơ là dòng tâm sự của
người lính chịu những tháng ngày lao khổ nơi trận mạc giờ quay về mang trong
mình những vết thương do nguyên tử hơi độc
da cam. Những vết thương trong thời chiến còn kéo dài nỗi đau đến tận hôm
nay, khiến họ chết dần đi nhưng cái chết thời bình không chứng minh họ là liệt
sĩ. Vì vậy họ sẽ không được nhớ đến, không được công nhận hay được hưởng “đặc ân” nào. Đó là thực tại chua cay của
những con người dám hy sinh thân mình cho lí tưởng cao đẹp giờ bị xã hội lãng
quên! Phải chăng từ thực trạng của cuộc sống thời hậu chiến, nhà thơ đã khái
quát lên những câu thơ về tình đời tình người, suy ngẫm về những vị chua ngọt của
cuộc đời. Bài Trái táo nhà thơ nhắc tới vị chua: Chua - ngọt - Chua là một vòng tròn có thật. Con người phải nếm vị
chua – tức những gian khổ những khó khăn của cuộc sống thì mới trải nghiệm được
ruột táo là tình vị tha vừa đắng lại vừa
bùi, nhưng đôi khi cái ngọt ngào cũng đáng sợ không kém:
Có một thời ở rừng, lúc đói phải lấy
rau rừng thay cơm
Người ta nhắc nhau: phàm những lá
có vị chua đều ăn được cả
Thì ra vị chua còn là yên ổn, lành
lặn…
- Này quả chín đỏ, ngọt lừ, coi chừng
đấy!
A, thì ra cái ngọt còn
phải dè chừng, cái chua không đáng sợ
(Trái
táo)
Từ những chiêm
nghiệm, nhà thơ hiểu thêm về bản thân mình, về cuộc sống hiện tại. Chiến tranh
đi qua, cuộc sống trở về với hoàn cảnh bình thường. Thời thế đã thay đổi, con
người sống, làm việc theo cung cách mới. Bao nhiêu quan hệ mới đặt con người
vào thế ứng xử, lựa chọn. Nhận thấy những thay đổi và phức tạp của cuộc sống mới,
người lính ba mươi năm trời cầm súng ấy đã băn khoăn biết bao:
Ta ở trên điểm tựa
Nằm dọc, rồi nghe
Mà ngứa mắt ngứa tai
Buộc lòng ta phải nghĩ
Về: thật, giả, đúng, sai, hay, dở…
(Trên điểm tựa)
Đứng
trước những ngổn ngang của đời sống, có khi nhà thơ ngỡ ngàng và não nùng bởi
những lần mình bị từ chối:
Vào lúc này
Ta muốn một triệu trái bom nguyên tử nổ nhanh, nổ ngay
Vì ba lần từ chối của tài vụ
Không cho lĩnh tiền...
Và một lần từ chối của em
Mà anh cho là lừa dối
Và còn rất nhiều cái từ chối
Ta là cái gì, mà cái gì cũng từ chối?
(Nỗi buồn)
Phùng Khắc Bắc còn nhìn
thấy thực tại dẫu đã hòa bình nhưng dường như đâu phải ai cũng hưởng trọn vẹn
trái ngọt hạnh phúc. Bởi cuộc sống luôn tồn tại dưới những hình thức đối lập: tốt
- xấu, hạnh phúc – đau khổ, công bằng – bất công…
Nhà thơ đã lên tiếng phản
đối cái xấu, cái bất nhân hay những bất công trong xã hội qua tập thơ “Một
chấm xanh”.
3.5. Tập thơ mang giá trị thẩm mỹ.
Tính nhân văn là tiêu chí
quan trọng hàng đầu của tiêu chí thẩm mỹ.
“Một chấm xanh” của Phùng Khắc Bắc giàu giá trị nhân văn và vì thế cũng mang
tính thẩm mĩ cao. Trong bất kỳ xã hội nào, giá trị thẩm mỹ cũng nhằm tới việc “nhân
đạo hóa” đời sống xã hội. Phùng Khắc Bắc viết nhiều về người lính và chiến
tranh, về hiện thực đời sống hay triết lí về lẽ sống – chết ở đời. Những tác phẩm
này phần lớn có khả năng trực tiếp gợi ra những khoái cảm thẩm mỹ trong sáng,
những tình cảm nồng nhiệt, tốt đẹp, niềm tin yêu vào con người và cuộc sống. Khi
đọc tập thơ, mấy ai trong chúng ta không phẫn nộ, lên án cuộc chiến tranh tàn bạo
và không khỏi khâm phục, tự hào trước phẩm chất tốt đẹp của người lính. Và bùi
ngùi làm sao trước những thắc thỏm lo âu của người mẹ có con ra chiến trận:
“Mẹ chờ hết thời loạn li
Con đi
Có lúc vọng lại tiếng đồn buồn
Lời nói mẹ bỏ ngoài tai nhưng trong bụng bồn chồn.
Mẹ chờ
Mẹ tin ngày hòa bình sẽ đến.
Con có về không?
Đó là câu hỏi không thể tự dối lòng
Cứ lấp lửng một mối lo chiến tranh
Không dám nghĩ đến sự nguyên lành
Chỉ mong con đừng mất.”
(Ra đi)
Sinh ra và lớn lên trong
thời bình, ta khó có thể hiểu và hình dung hết được nỗi lo lắng, bồn chồn… của
người vợ, người mẹ có chồng hoặc con đang ở nơi tuyến lửa. Chiến tranh là đồng
nghĩa với chết chóc, mất mát, đau thương. Chiến tranh đã cướp đi của con người
tất cả: người thân, gia đình, tuổi trẻ và cả tình yêu thương nên họ “không dám
nghĩ đến sự nguyên lành” của người ra trận mà chỉ mong sao đừng mất ở chiến trường
là đủ, là may mắn. Đoạn thơ mang đến cho ta nhiều thương cảm và có cái nhìn sâu
sắc hơn về số phận của những con người thời chiến. Nhiều bài trong “Một chấm xanh”, tác giả miêu tả rất chân
thực sự khốc liệt của chiến tranh cũng như những đau thương mất mát mà người
dân phải gánh chịu. Chính những mất mát đau thương đó là dấu ấn bi tráng trong
cuộc đời người lính và của mỗi con người Việt Nam. Việc tả thực này cũng mang lại
giá trị thẩm mĩ cho tập thơ.
Một chấm xanh của Phùng Khắc Bắc có sự hài hòa thống
nhất giữa nội dung và hình thức. Ta bắt gặp nhiều câu thơ với những ý tưởng lạ,
lối so sánh táo bạo, cách diễn đạt mới mẻ:
Những
chiếc bia không có mặt không có mồm
Có
chân không có tay
Cứ đứng lặng
mặc ta soi đuốc đèn đom đóm
Những cây
nhang đầu đen, nhọn
Lửa đom
đóm không thắp lại được mùi thơm.
(Trước mộ em trai ở
nghĩa địa Hà Lầm)
Những ngôi nhà như những bộ hài cốt mai táng trong không gian
Những hốc mắt – những ô cửa sổ
Những vòm miệng – cánh cửa môi nát rữa
Khẳng khiu xương sắt chơi vơi
(Những
ngôi nhà đứng nghiêng)
Những câu thơ ấy thật giàu
tính biểu cảm và tính hình tượng. Đây là một trong những tiêu chí chuẩn mực đặc
thù để đánh giá giá trị thẩm mỹ của tác phẩm văn chương. Nó mở ra khả năng gợi
mở, đánh thức trí tưởng tượng, liên tưởng, so sánh... của người đọc và mang đến
những sắc thái khác nhau cho cảm xúc thẩm mỹ.
Giá trị thẩm
mỹ của tập thơ được khẳng định một phần nhờ vào tư tưởng nghệ thuật của tác giả
thể hiện trong tác phẩm. Tư tưởng nghệ thuật không hiện lên ở những dòng chữ mà
hiện lên ở đằng sau những con chữ. Tư tưởng nghệ thuật bộc lộ cách nhận thức,
phản ánh cuộc sống hiện thực một cách đặc thù của Phùng Khắc Bắc. Theo nhà thơ
thì giữa cõi âm và cõi dương có sự tiếp xúc và chạm nhau, giữa sống và chết không
có gì khác nhau mấy. Các từ “sống” và “chết” , “cõi âm” và “cõi dương” thường
xuất hiện trong thơ của ông. Phải chăng trong hơn ba mươi năm quên mình chiến đấu
nhà thơ thấy được khoảng cách giữa sống và chết trong chiến tranh chỉ gần nhau
trong gang tấc trong khoảnh khắc, trong chớp mắt. Do vậy mà trong các sáng tác
của mình, nhà thơ luôn bị ám ảnh bởi “sống và chết”, “cõi âm và cõi dương”, “
làng âm và làng dương”, “thế giới âm và cõi trần”…
“Sống và
chết khác gì mấy đâu
Người chết hóa linh thiêng
người sống phải sở cầu…”
(Trước mộ
em trai ở nghĩa địa Hà Lầm)
“Trong cái làng âm
Người bốn ngàn năm, nằm chung cùng người chưa đủ
tháng
Trên cái làng dương
Người người nhường nhau đất sống”
(Trở về miền
đồi)
Điều này cũng góp phần khẳng định giá
trị thẩm mỹ của tập thơ. Nó thể hiện sự sáng tạo thẩm mỹ độc đáo, đầy cá tính của người cầm bút. Đọc thơ của Phùng Khắc Bắc có những câu thơ gần như
văn xuôi, nội dung rất trong sáng, “minh bạch”. Nhưng đằng sau sự “minh bạch” ấy
là những “rắc rối đến khôn cùng”. Những rắc rối ấy thể hiện được
tính cá biệt, tính riêng, phẩm chất thẩm mỹ của ngòi bút Phùng Khắc Bắc.
4.
Kết luận chung
Các nhà thơ sau năm 1975 có ý thức
sâu sắc khi đưa thơ trở về với những cảm xúc gần gũi, chân thực hay nỗi niềm
riêng tư của con người trong trạng thái đời thường. Phùng Khắc Bắc cũng vậy.
Thơ ông không chỉ ngợi ca những vẻ đẹp, những mặt tích cực của cuộc sống mà còn
trăn trở, suy ngẫm về nhiều vấn đề phong phú phức tạp của đời sống đang diễn ra.
Nó còn chứa cả tâm hồn đầy bí ẩn của con người trước cuộc sống với tinh thần
tôn trọng sự thật và hướng đến giá trị nhân văn.
Tập
thơ “Một chấm
xanh” chất chứa tất cả những tâm tư tình cảm, nỗi niềm ngổn
ngang, những âu lo khổ hạnh cùng những đau đớn hướng thiện của Phùng Khắc Bắc.
Bằng cái nhìn tỉnh táo và giàu màu sắc chiêm nghiệm, nhiều thi phẩm Phùng Khắc
Bắc đã thể hiện một cách sâu sắc hiện thực đời sống trước và sau chiến tranh,
không né tránh việc nói đến những bất công xã hội. Đây là những cảm hứng hiếm
khi xuất hiện trong thơ 1945- 1975, khi mà số phận dân tộc và số phận cá nhân
hòa làm một, cái tôi và cái ta hoàn toàn thống nhất.
Như những nhà thơ sau
1975, Phùng Khắc Bắc đã có một độ lùi cần thiết để nhìn về cuộc chiến bằng cái
nhìn toàn diện, sâu sắc hơn. Chiến tranh không chỉ được nhìn từ mặt trước mà
còn được nhìn từ phía sau với bao nỗi đau nhức nhối trĩu nặng, bao vết thương
khó lành. Chất giọng xót xa, nỗi buồn được nói nhiều trong thơ thể hiện chiều
sâu ngẫm ngợi của nhà thơ về thế thái nhân tình trong sự chuyển động không ngừng
của lịch sử. Đọc thơ Phùng Khắc Bắc, đọc
kỹ, ta tự hào vì nhà thơ đã gặt hái được những bài thơ hay viết về chiến tranh,
về tình yêu và cuộc sống đời thường, về lẽ sống chết ở đời. Những
trải nghiệm cá nhân cùng những suy tư mang tính khái quát cao của ông đã góp
thêm tiếng nói cho thơ ca giai đoạn này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội, 2004.
2. Phùng Khắc Bắc, Một chấm xanh, NXB Quân đội nhân dân,
2001.
3. Nguyễn Lâm Điền, Bài giảng dành cho học viên cao học: Chủ
nghĩa nhân văn trong văn học Việt Nam, Đại học Cần Thơ, 2010.
4. Lê Bá Hán - Trần Đình
Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ
điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007.
5. Hoàng Ngọc Hiến, Những ngả đường vào văn học, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2006.
6. Đỗ Đức Hiểu - Nguyễn
Huệ Chi - Phùng Văn Tửu - Trần Hữu Tá (chủ biên), Từ điển văn học (Bộ mới), NXB Thế giới, Hà Nội, 2003.
7. Lê Thiếu Nhơn, Văn chương nết đất,
NXB
8. Trần Đình Sử, Văn học và thời gian, NXB Văn học, Hà Nội,
2001.
9. Vũ Dương Quỹ, Những ấn tượng văn chương, tập 2, NXB
Giáo Dục, Hà Nội, 2003.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét