Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2015

MỖI TẤM BIỂN ĐỀU CÓ HAI MẶT

Description: Mỗi tấm biển đều có hai mặt 1 MỖI TẤM BIỂN ĐỀU CÓ HAI MẶT
“Tốt và không tốt hoàn toàn không có phân giới rõ ràng, chính xác, có chăng thì chỉ là cảm giác trong lòng người mà thôi. Trong lòng ông chứa thứ gì mới có thể tìm thấy thứ đó”.

Có một lữ khách trẻ tuổi tình cờ gặp một người lớn tuổi rất hiểu thiền lý ở trên thảo nguyên, anh ta hỏi cụ già: “Ông sống ở đây có tốt không?”

Cụ già hỏi ngược lại: “Quê hương của cháu như thế nào?”

Người lữ khách nói: “Tệ lắm, vừa bế tắc, vừa lạc hậu”

Cụ già vội nói: “Vậy cháu mau đi đi, ở đây và quê của cháu rất giống nhau”.

Description: Mỗi tấm biển đều có hai mặt 1
Sau đó lại có một lữ khách khác đến, cũng hỏi cụ già câu như vậy, cụ già cũng hỏi ngược lại một câu như đã hỏi thanh niên trước, lữ khách mới đến trả lời một cách thâm tình: “Quê cháu rất tốt, đồng ruộng khe suối, cỏ cây nhà cửa, lại có người thân xóm giềng, đều làm cho cháu rất nhớ”.



Cụ già bèn nói: “Ở đây cũng đẹp như ở quê của cháu vậy”.

Có một người bên cạnh nghe như vậy cảm thấy nghi ngờ không hiểu, hỏi cụ già: “Tại sao cùng một câu hỏi giống nhau, mà cụ lại trả lời khác nhau một trời một vực như thế?”

Cụ già nói: “Tốt và không tốt hoàn toàn không có phân giới rõ ràng, chính xác, có chăng thì chỉ là cảm giác trong lòng người mà thôi. Trong lòng ông chứa thứ gì mới có thể tìm thấy thứ đó”.

Nhà thiền có câu: “Người trong lòng đầy bất mãn và trở ngại muốn đi tìm chỗ tốt đẹp để trở về nương náu, nhất định tìm không được nhưng trong lòng tràn đầy tình yêu và sự đẹp đẽ mới có thể phát hiện được ốc đảo của chính mình. Điều này xem ra dường như là việc phức tạp huyền bí, kỳ thật chỉ là nói rõ một đạo lý:

"Trên thế giới không có sự việc gì là tuyệt đối, bất cứ tấm thẻ nào trong tay bạn cũng hoàn toàn có hai mặt trái và phải."


ĐÂY THÔN VĨ DẠ

Đây thôn vĩ dạ – Hàn Mạc Tử
·        Đặt vấn đề
Trên bầu trời thơ mới, Hàn Mặc Tử nổi lên như một ngôi sao chói lọi diệu kì. Thơ ông mang diện mạo hết sức phức tạp và bí ẩn bởi sự đan xen của cả những gì bản thân thuộc thanh khiết, thiêng liêng nhất; cả những gì ghê rợn, ma quái, cuồng loạn nhất. Tuy nhiên đằng sau thế giới hình ảnh phức tạp kia vẫn hiện rõ một người chan chứa lòng yêu sống. Ngay cả lúc linh hồn muốn rời bỏ trần gian để bay lên cõi siêu nhiên thì người ta vẫn thấy rõ một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời trần thế. Nhưng đến Hàn Mạc Tử chúng ta không thể không nhớ đến “ Đây thôn Vĩ Dạ” ( Rút từ tập “đau thương”)
·        Thân bài
Xuất xứ: Theo lời của bạn bè và người thân nhà thơ kể lại khi làm ở sở đạc điền ở Qui Nhơn, Hàn Mạc Tử đem lòng yêu cô gái tên là Hoàng Thị Kim Cúc mà chúng ta vẫn quen gọi là Hoàng Cúc. Đây là cô gái con nhà viên chức lại có vẻ đẹp dịu dàng kín đáo kiểu chân quê. Thực ra đây chỉ là mối tình đơn phương từ phía Hàn Mạc Tử. Khi Hoàng Cúc theo cha về Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử coi sự kiện này như làng đi lấy chồng và đã gửi trọn lòng của mình trong tập “ Gái quê” với những vần thơ:
“ Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏi đá trắng
Ngồi lên để tha cái hồn thơ”
Khi nhà thơ mắc bệnh nan y, ông đã nhận được tấm thiệp kèm lời hỏi thăm của Hoàng Cúc. Thi sĩ đã viết bài thơ này để tặng cho cô gái
Một bài thơ chữ tình bao giờ cũng có một giọng điệu đặc trưng. Ở Đây thôn Vĩ Dạ đó là giọng điệu tha thiết. Tha thiết với người con gái anh thầm yêu, với cảnh Huế, người Huế và trên hết với cuộc đời. Những điều này đã biến tiếng nói nội tâm riêng tư của Hàn Mặc Tử trở thành tiếng lòng muôn đời của người trong cuộc đời. Điều này giải thích vì sao, gần 80 năm qua Đây thôn Vĩ Dạ luôn nằm trong tâm hồn của các thế hệ yêu thơ.
Khổ 1
“ Sao anh không về chơi thôn Vĩ”
Khổ thơ được mở đầu bằng những câu hỏi. Đây là câu hỏi mà nhà thơ hỏi chính mình, hỏi để khẳng định: về Vĩ Dạ, thăm lại chốn cũ người xưa là điều vô cùng thú vị. Câu hỏi mang sắc thái lời mời, lời trách,lời nhắc nhở trong câu hỏi, ta bắt gặp chất giọng ngọt ngào của xứ Huế được khắc họa rất thành công bởi câu thơ có 6/7 tiếng là thanh bằng. Câu thơ đưa ta về với một địa chỉ thân thương: Vĩ Dạ. Đó là một làng nhỏ nằm ở bờ Nam sông Hương cách tư tâm thành phố Huế bằng những hình ảnh tản bộ. Từ xưa Vĩ Dạ đã nổi tiếng với vẻ đẹp trầm lắng thanh tao của kiến trúc nhà vườn – những ngôi nhà xinh xinh như những bài thơ tư tuyệt ẩn hiện trong màu xanh lá không phải ngẫu nhiên, VĨ Dạ là nơi các quan chức Huế trước đây chọn làm nơi ở sau khi về hưu, là nơi các tao nhân mặc khách thường lui tới.
Ba câu thơ tiếp theo tập trung khắc họa cảnh vườn – nét đặc sắc riêng của không gian Vĩ Dạ:
“ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Câu thơ có hai chữ “nắng”, chữ “nắng” sau bổ sung và làm rõ nét nghĩa cho chữ nắng trước: Nắng mới lên là nắng mới bắt đầu cho một ngày. Ở thời điểm đó, những sắc xanh vừa mới được hồi sinh bóng tối đón nhận ánh nắng mới lên của bình minh thanh tân khôi, gợi nhắc lại những câu thơ của Tố Hữu:
            Nắng xuân tưới trên thân dừa xanh dịu
            Tàu cau non thấp thoáng muôn gợn xanh
            Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu
            Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh
Hàn Mặc Tử  đã viết một câu thơ gợi ấn tượng về sự tinh khôi với vườn như
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Chữ “mướt” nói lên trạng thái óng ả mượt mà của cây lá đang độ phát triển non tơ. Một từ “quá” ở liền đó đã đẩy cảnh của nhân vật chữ tình lên đến độ cao nhất của cao trào gợi vườn thôn Vĩ Dạ như một viên ngọc không chỉ dời dợi sắc xanh mà còn tỏa vào không gian những sắc xanh.
“Lá trúc……”
Nét tài của thi sĩ đã gợi ra vẻ đẹp hài hòa gợi cảm: lá trúc (thanh), mặt chữ điền (vuông vức). Câu thơ còn gợi ra một quan niệm về cảnh đẹp đậm chất Á Đông: cảnh đẹp là sự hài hòa giữa người và thiên nhiên. “mặt chữ điền” là một biểu tượng phúc hậu có từ thuở ca dao:
            “ Mặt em vuông tượng chữ điền
            Da em thì trắng áo đen mặc ngoài
            Lòng em có đất có trời
            Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung
            Anh thương em không thương bạc thương tiền
            Mà anh thương cái khuôn mặt chữ điền của em”.
Ba câu thơ, mỗi câu là một chi tiết trong vườn. Tất cả hợp lại, ánh lên vẻ bình dị, cao sang, tươi tắn đầy sức sống
Bức tranh cảnh vật ấy chỉ có thể là sản phẩm của một tâm hồn yêu đời khao khát sống. Vậy mà khi viết những câu thơ này Hàn Mặc Tử đang mắc bệnh nan y, cảnh vật hết sức bi thương
            “ Tôi đang còn đây hay ở đâu
            Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu”.
Thậm chí, Hàn Mặc Tử còn ví mình là cung nữ bị bỏ quên
            “ Ngoài kia xuân đã thắm hay chưa
            Trời ở trong đây chẳng có mùa
            Chẳng có niềm trăng hay ý nhạc
            Có những cung nữ nhớ thương vua”
Tấm bưu thiếp và lời hỏi thăm của Hoàng Cúc với Hàn Mặc Tử thực sự là thuốc tiên dược để kẻ bất hạnh được nhìn đời bằng con mắt yêu đời khiến cái gì cũng biếc rờn, tươi non tràn đầy sức sống. Vĩ Dạ trở thành tín hiệu của cuộc đời trần thế ấm lòng tình người, về Vĩ Dạ là về với cuộc đời
Ẩn chứa bên trong bức tranh phong cảnh tươi đẹp là nỗi buồn man. Đầu từ “ai” (trong “vườn ai”) gợi một vẻ đẹp quá tầm tay, hành trình về Vĩ Dạ trở thành hành trình không thể thực hiện được.
Tiểu kết: Của nhận và đón nhận tình người với tất cả sự khao khát trân trọng. Đó chính là giá trị nhân bản thứ nhất của bài thơ này
Khổ 2
Tiếp nối mạch cảm xúc của khổ một, dường như ở khổ thơ thứ hai nhà thơ dành để đặc tả cảnh sông nước mây trôi xứ Huế:
            “ Gió theo lối gió, mây đường mây
            Dòng …..
Cảnh sông nước mang nỗi buồn li tán. Gió mây đôi ngả. Thi sĩ lãng mạn vốn nhạy cảm với sự chia li Hàn Mạc Tử trong cảnh ngộ riêng của mình đã thấy: sự chia li can thiệp vào những thứ vốn không thể chia li. Câu thơ đầu cho thấy: chữ “gió” đóng khung gió, hai chữ “mây” đóng khung mây, giữa gió và mây là hai sự chia lìa cách trở. Dòng nước sông Hương êm đềm từng đi vào câu thơ rất đỗi chân tình của Tố Hữu:
            “Hương Giang ơi! Dòng sông êm
            Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình”
Giờ đây chỉ còn dòng nước buồn thiu, nỗi buồn nhẹ nhàng sâu lắng, lặng vào tâm tưởng và chứa cả nỗi chán chường. Hoa bắp với màu sắc ảm đạm và động thái lay, gợi sự sống yếu ớt càng góp thêm vào cái u buồn sông nước
Cõi nhân gian ăm ắp sự sống, biêng biếc sắc màu đã nhường chỗ cho một vũ trụ lạc điệu, hiu hắt, vô sai, vẽ của tâm trạng tăm tối u buồn : thân bệnh – tâm bệnh. Đây chính là thực trạng thân phận của thi sĩ.
Khi nghệ sĩ lãng mạn buồn đời mà không chán đời: không tìm thấy sự đồng điệu trong cõi thực, nhà thơ đi tìm sự hài hòa trong cõi mộng:
            “Thuyền ai chở bến sông trăng đó
            Có chở trăng về kịp tối nay”
Những chi tiết thực (thuyền sông, trăng) đã góp phần tạo lên cảnh ảo: một con thuyền một dòng sông bọc trong trăng, vạn vật như rũ bỏ hết màu sắc đường nét phàm trần để thấm đẫm ánh trăng. Nó gợi cho ta nhớ đến câu thơ rất đỗi phong lưu của Nguyễn Công Trứ:
            “Gió trăng chứa một thuyền đầy
            Của kho vô tận biết ngày nào rơi”.
Và người đọc cũng không quên trong thơ Hàn Mặc Tử, trang là hình tượng luôn trở đi trở lại, là máu thịt là tài sản của thi nhân. Thi sĩ chẳng đã từng rao bán
            Ai mua trăng tôi bán trăng cho,
           Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò.
Tuy nhiên bên trong bức tranh phong cảnh rất mộng ảo lại chứa đựng những từ ngữ cụ thể, mộc mạc: kịp- tối nay. “Tối nay” như thu bớt quỹ thời gian cho thấy một thực tại ngắn ngủi. Chữ “kịp” gợi cảm giác khắc khoải âu lo vì sợ muộn. Câu thơ thẫm đẫm cảm giác mong manh, chứa đầy linh cảm về sự mất mát lỡ làng.
Khổ thơ cho thấy cảnh chuyển từ rất xa rất nhanh - một đặc điểm của thơ Hàn Mặc Tử.
Dẫu cuộc đời lìa bỏ phũ phàng, vẫn níu kéo tha thiết cuộc đời, đó chính là thông điệp nhân văn của khổ thơ này.
·        Khổ 3
Những người con gái trong thơ Hàn Mặc Tử bao giờ cũng hiện thân cho vẻ đẹp thuyệt đỉnh của trần thế. Ở khổ thơ này cũng tập trung vào hình ảnh của thiếu nữ. Hình ảnh gần gũi thân thương của “em” đã trở thành nhân cách, xa vời, hư ảo. Để rồi tất cả chỉ còn lại trong:
            Áo em trắng quá nhìn không ra
Câu thơ như đã dẫn tới những cách hiểu khác nhau: do lần vào sương khói, đó là cách cực tả sắc trắng ở mức độ tuyệt đối, tận cùng. Cách hiểu thứ hai có vẻ hợp lý hơn cả. Hàn Mạc Tử vốn sành tả sắc trắng với một cảm quan đặc biệt.
Trong “Mùa xuân chín” là một sắc trắng đến nhức mắt:
            Chị ấy năm nay còn gánh thóc
            Dọc bờ sông trắng nắng chang chang
Nhà thơ quay trở lại với lòng mình
            “ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
            Ai biết….
Trong mạch văn bản, “ở đây” không phải là Huế hay Quy Nhơn mà là nói đang có sự tái hiện của anh, nơi anh đang sống trong sự chia lia cách trở, để hướng về nơi ấy, cõi nhân gian ăm ắp sự sống, biêng biếc sắc màu, ấm lòng tình người mà còn ý thức được mình chỉ là kẻ đứng ngoài trong một bài thơ khác thi sĩ đã viết:
            Anh đứng cách xa nghìn thế giới
            Lặng nhìn trong mộng miệng em cười
            Em cười anh cũng cười theo nữa
            Để nhắn hồn anh đã đến nơi
Giữa anh và nơi ấy là khoảng cách của sương khói: sương khói không gian, thời gian sương khói của mối tình vô vọng. Ở câu thơ cuối hai đại từ “ai” chỉ hai người trong mối quan hệ khăng khít. Tín hiệu tình người có nhưng chưa đủ để cứu rối linh hồn, nhất là những linh hồn bất hạnh. Nhà thơ mong cái tuyệt đỉnh của tình người: đậm đà. Câu thơ có chút hờn giận nhẹ nhàng, có phủ bòng hoài nghi và trên hết là sự ghi nhận một tấm lòng.
Khổ thơ là ba bức tranh phong cảnh: khổ một- bức tranh phong cảnh tươi sáng đầy sức sống, Khổ 2 – cảnh mộng ảo, Khổ ba – cảnh hư ảo. Ba khổ thơ đều chứa trong nó những câu hỏi. Vì thế âm điệu của những câu hỏi.
            Khổ một : khát vọng từ bên trong lại được tái hiện như một lời mời gọi từ bên ngoài
            Khổ hai: hy vọng vủa lóe sáng lập tức chuyển thành vô vọng
            Khổ ba: một ước vọng vừa lóe rạng ngời
·           Tổng kết
Gần 80 năm qua, Đây thôn Vĩ Dạ vẫn xanh tươi trong vườn thơ Việt Nam. Nó góp phần đưa Hàn Mặc Tử vào vị trí là một trong những đỉnh cao của Thơ mới. Với bài thơ này, ta hiểu vì sao Chế Lan Viên lại nhận xét: “Tôi dám chắc với các người rằng, sau này những gì tầm thường mực thiết kia sẽ tan biến đi, còn lại một chút gì của thời này đó là Hàn Mặc Tử”.



  

MỘT SỐ ĐỀ LÀM VĂN VÀ GỢI Ý LÀM BÀI MÔN NGỮ VĂN 11 HKII

MỘT SỐ ĐỀ LÀM VĂN VÀ GỢI Ý LÀM BÀI
Đề 1:
Vần thơ của Bác, vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình
Điều đó thể hiện như thế nào trong bài Chiều tối
 A. Mở bài:
- Hồ Chí Minh là nhà yêu nước, nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Đóng góp to lớn nhất của Người là sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh Hồ Chí Minh - nhà cách mạng, còn có Hồ Chí Minh - nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa lớn.
- Chiều tối là bài thơ tiêu biểu cho thơ trữ tình Hồ Chí Minh
 - Dẫn được hai câu thơ của Hoàng Trung Thông
B.Thân bài :
a. Giải thích ngắn gọn ý thơ của Hoàng Trung Thông
- Thơ Bác luôn hài hòa chất thép với tinh thần chiến đấu vượt khó, dũng khí kiên cường và chất tình tình cảm dạt dào với thiên nhiên, cuộc sống, con người.
- Thơ Bác sáng lên vẻ đẹp một chiến sĩ và thi sĩ.
b. Phân tích, chứng minh: Trong bài Chiều tối, chất thép và chất tình thể hiện rất tinh tế
- Hai câu đầu: Qua bức tranh thiên nhiên, Bác thể hiện tình yêu thiên nhiên, phong thái ung dung, tự chủ gần gũi với những hiền triết, những người nghệ sĩ thời xưa. Đó là tiếng thơ trữ tình, dào dạt cảm xúc
- Hai câu sau: Qua bức tranh cuộc sống, thơ Bác toát ra tình yêu cuộc sống con người, niềm vui, niềm lạc quan. Những cảm xúc ấy là sự hài hòa chất tình và chất thép trong thơ, bởi vì có niềm lạc quan Bác sẽ có thêm nghị lực sống, quyết tâm vượt qua cảnh ngộ lưu đày, cô quạnh để đối mặt với số phận, vượt qua số phận. Đó là phong thái cứng cỏi của người chiến sĩ cách mạng gang thép trong thơ và trong nhân cách con người Bác
* Lưu ý: - Trong quá trình phân tích, học sinh phải kết hợp giữa nội dung và nghệ thuật bài thơ để làm rõ vấn đề.
- Phần này học sinh có thể liên hệ dẫn chứng thêm một số bài thơ khác trong Nhật ký trong tù để tăng sức thuyết phục cho bài viết.
(Phần phân tích chứng minh có thể làm theo cách khác như sau
a. Lòng nhân ái bao la, tình yêu cuộc sống sâu nặng
- Yêu thiên nhiên, tạo vật. Qua  bài thơ, hình ảnh thiên nhiên luôn chiếm vị trí nổi bật. Bác nâng niu từng biểu hiện của sự sống: “cánh chim, đám mây... Có ai ngờ, thiên nhiên lại hiện lên đẹp và sáng đến thế trong bài thơ Bác bị giải đi vào lúc nửa đêm. 
- Quan tâm tới con người. Dù trong hoàn cảnh nào, Bác cũng không quên nghĩ tới con người. Hình ảnh thiếu nữ xay ngô tối với Bác là vẻ đẹp của cuộc sống bình dị. Ngọn lửa hồng reo vui trong bếp lửa gia đình, lòng Bác như cũng reo vui với nó (dẫn chứng).
b. Một tâm hồn tự do, không tù ngục, xích xiềng nào giam giữ nổi.
c. Một tâm hồn có tinh thần thép vượt qua những đọa đày về thể xác, mọi thử thách khốc liệt về tinh thần.
Qua hình ảnh quyện điểu và cô vân, ta bắt gặp thoáng buồn, thoáng cô đơn rất người của Bác. Nhưng trước ngọn lửa hồng Bác quên đi việc mình chưa được dừng chân trên con đường đày ải mà để lòng mình reo vui cùng ngọn lửa, để hình ảnh tỏa ấm trên trang thơ, xua tan cái lạnh lẽo, cô đơn của lòng người và cảnh vật. Ngọn lửa hồng trở thành vẻ đẹp tinh thần của nhà cách mạng.
d. Một tâm hồn lạc quan, tin tưởng
 Kết thúc bài thơ bằng hình ảnh ngọn lửa hồng mang lại cảm giác phấn chấn, lạc quan. Lời thơ vời vợi lòng tin.
e. Một hồn thơ phong phú
- Thi hứng đã đến với Người trong những giờ phút nặng nề, cực nhọc nhất của cuộc đời, ngay cả trong lúc đối với người bình thường, cảm xúc thơ dễ bị triệt tiêu nhất hoặc không cất lên nổi: Cốt cách thi nhân ở Bác thể hiện ở niềm rung động trước cái đẹp, dù trong cảnh huống nào. 
- Niềm rung động ấy được thể hiện bằng những vần thơ vừa cổ kính, vừa hiện đại của một tâm hồn nghệ sĩ mang cốt cách phương Đông. Hồn thơ Hồ Chí Minh bắt rễ rất sâu vào truyền thống dân tộc, truyền thống phương Đông).
c. Bình luận: Qua bài Chiều tối, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh hiện lên tinh tế: người nghệ sĩ- chiến sĩ. Đọc thơ Người, chúng ta thấy được một con người lạc quan, tinh thần cách mạng sáng ngời. Ý kiến của nhà thơ Hoàng Trung Thông về thơ Hồ Chí Minh thật xác đáng
C. Kết bài: Tổng kết vài nét về ý kiến của Hoàng Trung Thông và bài thơ Chiều tối
Đề 2: Vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối
1: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, luận đề
- Hồ Chí Minh là nhà cách mạng, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Bên cạnh sự nghiệp cách mạng vĩ đại, Người cũng để lại một sự nghiệp văn học đa dạng, phong phú.
- Nhật ký trong tù là tập thơ viết bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh trong thời kỳ Người bị giam giữ ở nhà lao của bọn Tưởng Giới Thạch từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943. Tập thơ chẳng những cung cấp cho ta những hiểu biết về chế độ lao tù khắc nghiệt của chính quyền Tưởng Giới Thạch, mà quan trọng hơn còn giúp ta hiểu rõ vẻ đẹp tâm hồn của chính bản thân người đã sáng tạo ra nó, nhà cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh. 
- Có thể thấy rõ điều đó qua bài thơ Chiều tối (Mộ) của Người.
2: Những biểu hiện cụ thể: Là nhật ký, tác phẩm còn là tập thơ trữ tình nên thiên về việc bộc lộ thế giới bên trong, thế giới tâm hồn của người sáng tạo. Đó là lòng nhân ái bao la, là tình yêu cuộc sống sâu nặng, là tâm hồn của con người có sự tự do tinh thần tuyệt đối, là cốt cách vững vàng, một phong thái ung dung tự tại...
a. Lòng nhân ái bao la, tình yêu cuộc sống sâu nặng
- Yêu thiên nhiên, tạo vật. Qua bài thơ, hình ảnh thiên nhiên luôn chiếm vị trí nổi bật. Bác nâng niu từng biểu hiện của sự sống: cánh chim, đám mây...
- Quan tâm tới con người. Dù trong hoàn cảnh nào, Bác cũng không quên nghĩ tới con người. Hình ảnh thiếu nữ xay ngô tối với Bác là vẻ đẹp của cuộc sống bình dị. Ngọn lửa hồng reo vui trong bếp lửa gia đình, lòng Bác như cũng reo vui với nó (dẫn chứng).
b. Một tâm hồn tự do, không tù ngục, xích xiềng nào giam giữ nổi.
c. Một tâm hồn có tinh thần thép vượt qua những đọa đày về thể xác, mọi thử thách khốc liệt về tinh thần.
Qua hình ảnh quyện điểu và cô vân, ta bắt gặp thoáng buồn, thoáng cô đơn rất người của Bác. Nhưng trước ngọn lửa hồng Bác quên đi việc mình chưa được dừng chân trên con đường đày ải mà để lòng mình reo vui cùng ngọn lửa, để hình ảnh tỏa ấm trên trang thơ, xua tan cái lạnh lẽo, cô đơn của lòng người và cảnh vật. Ngọn lửa hồng trở thành vẻ đẹp tinh thần của nhà cách mạng.
d. Một tâm hồn lạc quan, tin tưởng
 Kết thúc bài thơ bằng hình ảnh ngọn lửa hồng mang lại cảm giác phấn chấn, lạc quan. Lời thơ vời vợi lòng tin.
e. Một hồn thơ phong phú
- Thi hứng đã đến với Người trong những giờ phút nặng nề, cực nhọc nhất của cuộc đời, ngay cả trong lúc đối với người bình thường, cảm xúc thơ dễ bị triệt tiêu nhất hoặc không cất lên nổi: Cốt cách thi nhân ở Bác thể hiện ở niềm rung động trước cái đẹp, dù trong cảnh huống nào. 
- Niềm rung động ấy được thể hiện bằng những vần thơ vừa cổ kính, vừa hiện đại của một tâm hồn nghệ sĩ mang cốt cách phương Đông. Hồn thơ Hồ Chí Minh bắt rễ rất sâu vào truyền thống dân tộc, truyền thống phương Đông. 
3. Kết bài: Tổng kết vấn đề

Đề 3: Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang (Huy Cân)
 A. Mở bài
- Huy Cận là một trong những trụ cột của phong trào Thơ Mới.
-  Thi phẩm Lửa thiêng thì thường lẳng lặng kết hợp và dung hoà giữa chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Pháp với cái hàm súc, sâu lắng của thơ Đường để tạo cho thơ mình một vẻ đẹp riêng: vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại.
- Có thể thấy rõ nét đặc sắc của bài thơ Tràng giang là ở sự kết hợp hài hoà hai phẩm chất : màu sắc cổ điển và chất hiện đại.
 B.Thân bài
1. Màu sắc cổ điển trong Tràng Giang:
 a.  Giải thích cổ điển là gì?
    Là những thi pháp, hình ảnh thơ cổ được sử dụng trong văn học, đó là truyền thống là tinh hoa của văn học dân tộc.
b. Màu sắc cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang
 - Tràng giang là một thi phẩm được viết trên tinh thần không khước từ với truyền thống. Tác giả vận dụng được nhiều nét tinh hoa của văn chương trung đại và tạo cho bài thơ một vẻ đẹp hài hoà giữa màu sắc cổ điển và màu sắc hiện đại phù hợp với phong cách thơ giàu suy tưởng của chính mình. Màu sắc cổ điển đậm đà, in dấu ấn toàn diện tạo nên vẻ độc đáo của một bài Thơ Mới.
- Nét đẹp cổ điển và hiện đại được thể hiện ngay từ thi đề của bài thơ “Tràng giang”. Hai chữ “tràng giang” mang tính cổ điển mà trang nhã, là từ Hán Việt, gợi cho ta đên những bài thơ Đường thi có màu sắc xưa cũ, cổ kính. Nhưng nếu các thi nhân xưa đến với thiên nhiên để tìm sự giao cảm thì nhà thơ hiện đại Huy Cận lại đứng trước “Tràng giang” để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã trước kiếp người nhỏ bé cô đơn. Đó là một tâm hồn rất hiện đại mà qua đó ta có thể thấy được nét quyến rũ của bài thơ.
- Ngoài ra bài thơ “Tràng Giang” mang vẻ đẹp cổ điển và hiện đại thể hiện ở thể loại thơ và bút pháp mà tác giả sử dụng. Thể loại thơ ở đây là thơ 7 chữ với lối ngắt nhịp đăng đối nhuần nhuyễn. Song, “Tràng giang” cũng rất mới qua những từ ngữ giãi bày cảm xúc cá nhân
- “Tràng giang” là một bức tranh về phong cảnh mà còn là một bản nhạc về tâm hồn. Nét thi vị của bài thơ là ở vẻ đẹp cổ điển và hiện đại luôn hòa quyện, sóng đôi. Nét đẹp của bài thơ sẽ mãi đi vào lòng người, để rồi qua vẻ đẹp đó ta thấy được một tấm lòng yêu nước thầm kín, một tài hoa rực sáng của thi ca.
c. Phân tích chứng minh
  Cổ điển ở nhan đề:
- Bài thơ mới lại có nhan đề bằng chữ Hán. “Tràng” ( một âm đọc khác của “trường”) gợi sự cổ kính. “Giang” là tên chung để chỉ các dòng sông. Hai chữ này gợi một không gian cổ kính, trang trọng, bát ngát như trong Đường thi, gợi nhớ câu thơ nổi tiếng của Lý Bạch: “Duy kiến trường giang thiên tế lưu” ( Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng). Hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường Giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.
- Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la.
 Cổ điển ở đề từ:
“Trời rộng” gợi cảm giác về sự vô biên của vũ trụ. “Sông dài” tạo ấn tượng về cái vô cùng của không gian. Trời rộng và sông dài mở ra không gian ba chiều gợi cảm giác rợn ngợp của con người cô đơn, bé nhỏ trước cái mênh mang, bất tận của trời đất.
 Cổ điển ở thi liệu
Ở Tràng giang, ta bắt gặp nhiều hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ: con thuyền, dòng sông, cách bèo, mặt nước. Có những hình ảnh tượng trưng thường gặp trong thơ cổ : Tràng giang, sông dài , trời rộng, bến cô liêu, mây cao, núi bạc, cánh chim nhỏ, bóng chiều sa, khói hoàng hôn, cuộc sông' con người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
 Cổ điển ở tứ thơ sóng đôi:
- “Tràng giang” được cấu tứ trên nền cảm hứng không gian sóng đôi:
- Có dòng “Tràng giang” thuộc về thiên nhiên trong tư cách một không gian hữu hình và ( cũng có ) dòng “Tràng giang” tâm hồn như một không gian vô hình trong tâm tưởng. Đây vốn là cấu tứ quen thuộc của Đường Thi.
- Tiếp cận Tràng giang trong tư cách dòng sông thiên nhiên có thể thấy một điều đặc biệt: khổ thơ nào cũng có thông điệp về nước. Thông điệp trực tiếp là các từ : “nước”, “con nước”, “dòng”…Thông điệp gián tiếp là các từ : “sóng gợn”, “cồn nhỏ”, “bèo dạt”, “bờ xanh”, “bãi vàng”…
- Tiếp cận Tràng giang với tư cách dòng sông cảm xúc trong tâm hồn lại phát hiện thêm một điều thú vị nữa: Cảnh nào cũng gợi buồn.
Cổ điển ở nghệ thuật đối:
- Màu sắc cổ điển còn được bộc lộ qua cách sử dụng nghệ thuật đối của Đường Thi nhưng khá linh hoạt và phóng túng. Chẳng hạn: “Sóng gợn…”đối với “ Con thuyền…”; “Nắng xuống đối với trời lên…” ; “Sông dài đối với trời rộng…”. Nhưng đóng góp quan trọng hơn cả là nghệ thuật đối được sử dụng một cách triệt để bằng hai hệ thống hình ảnh mang tính tương phản giữa một bên là những sự vật nhỏ bé, gợi suy ngẫm về cái hữu hạn của kiếp người: thuyền, củi, bến, bèo, cánh chim…và một bên là những hình ảnh lớn lao, hùng tráng gợi liên tưởng về cái vô hạn của vũ trụ: sông dài, trời rộng, lớp lớp mây cao, núi bạc…
 Sử dụng hệ thống từ láy gợi âm hưởng cổ kính: (10 lần/16dòng thơ, cách ngắt nhịp truyền thống: 3/4)
- Hệ thống từ láy trải khắp bài thơ: “Tràng giang”, “điệp điệp”, “song song”, “lơ thơ”, “đìu hiu”, “chót vót”, “mênh mông”, “lặng lẽ”, “lớp lớp”, “dợn dợn”.Ngoài ra, tác giả còn sử dụng sáng tạo thi liệu của Đường Thi với rất nhiều hình ảnh và chất liệu quen thuộc. Đặc biệt câu kết mượn thẳng ý thơ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” ( Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai - Tản Đà dịch ).
2. Màu sắc hiện đại:
             Dù bài thơ Tràng giang có in đậm màu sắc cổ điển trên một số phương diện như đã phân tích thì hiện đại vẫn là nét chính của thi phẩm này. Bởi cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn mênh mang, sâu lắng của cái tôi cô đơn trước vũ trụ được bộc lộ một cách trực tiếp qua một cách diễn đạt cô đọng và hàm súc. Tâm trạng của một cái tôi lãng mạn đó lại được thể hiện bằng bút pháp tả thực vừa phá vỡ qui tắc ước lệ truyền thống vừa đem đến một phong cách trữ tình mới. 
             - Nét hiện đại trong Tràng giang trước nhất thể hiện ở “nỗi buồn thế hệ” của một “cái tôi” Thơ mới thời mất nước “chưa tìm thấy lối ra”, qua xu hướng giãi bày trực tiếp “cái tôi” trữ tình (buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà…), qua những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn xúc cảm cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm thân mật, dợn…)
             - Mặt khác, Tràng giang cũng không thiếu những hình ảnh, âm thanh chân thực của đời thường, không ước lệ (củi khô, tiếng vãn chợ chiều, bèo dạt…). Bài thơ hiện đại và là một bài thơ mới. Có cái mới của hồn thơ, có cái mới của chủ thể trữ tình.Khác với thơ xưa, tâm trạng của chủ thể trữ tình,cảm hứng cá nhân của nhà thơ chạy suốt toàn bài mới là nhất quán .Nó khác hẳn với kết cấu đề - thực - luận - kết , hay tiền giải - hậu giải của thơ Đường. Bài thơ hiện đại trong cách cảm nhận sự vật, trong cách sử dụng thi liệu hình ảnh : củi, sông, nắng, bèo, cát, cây xanh, cánh chim , ....Tất cả làm nên một bức tranh thiên nhiên quê hương gần gũi , quen thuộc . Bởi nó đã in dấu, đã hằn sâu, đã hoà cùng dòng chảy và đã lẫn vào những cảnh quê hương sông nước trên khắp đất nước Việt Nam yêu dấu.
 (Có thể phân tích bài thơ theo hướng sau
  Khổ 1: Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:
                                         Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
                     Con thuyền xuôi mái nước song song
                     Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
                     Củi một cành khô lạc mấy dòng
Cũng như nhiều nhà thơ mới khác cùng thời, Huy Cận luôn mang trong tâm tư của mình nỗi sầu của cả thế hệ. Đó là nỗi sầu nhân gian, nỗi sầu vạn kỷ chảy về:
                                        Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp.
    Nhìn dòng sông mênh mông gợn sóng, tác giả cảm thấy
+ Buồn điệp điệp: Điệp từ như nhấn mạnh mức độ của nỗi buồn. Nỗi buồn ấy đang trải ra, đang dềnh lên mênh mông bát ngát cùng sóng nước
 + Và giữa không gian sông nước mênh mông ấy có một con thuyền thật lặng lẽ:  
 Con thuyền xuôi mái nước song song.
Con thuyền xuôi mái là con thuyền buông mái không chèo để mặc dòng nước cuốn trôi. Giữa không gian rộng lớn, con thuyền trở nên nhỏ bé bơ vơ.
Không chỉ có vậy thuyền còn gợi lên một cái gì nổi lênh như kiếp người trong cuộc đời cũ. Nhất là ở đây con thuyền lênh đênh thả mái xuôi dòng.
Cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao ta chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của  dòng “tràng giang”.
Và trong cái thiên nhiên vô cùng, vô tận ấy, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng 
                                        Thuỳên về nước lại sầu trăm ngả
                                        Củi một cành khô lạc mấy dòng
Thuyền về, nước ở lại, sầu chia li bao trùm trăm ngả. Trên dòng nước mênh mông ấy, một cành củi khô nhỏ bé gầy guộc vừa lìa cành bập bềnh trên sóng nước không biết trôi về đâu
- Hai câu thơ, phép đối được sử dụng một cách sáng tạo, chỉ đối ý đối hình mà vần thơ vẫn cân xứng hài hoà.Con thuỳên và cành củi khô đang cùng trôi nổi trên tràng giang.
-  Các số từ sầu trăm ngả, củi một cành khô, mấy dòng đã cho ta thấy rõ cái ám ảnh về kiếp người nhỏ bé hữu hạn, sự đau khổ sầu thương thì to lớn vô hạn.
Nét đẹp cổ điển “tả cảnh ngụ tình” thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói “Củi một cành khô” thật đặc biệt. Nó không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.
Khổ 2:  Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo. Vẫn là cảnh sông nước nhưng tác giả vẽ thêm đất thêm người:
                                                  Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
                                                  Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
                                                  Nắng xuống trời nên sâu chót vót
                                                  Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Nỗi buồn vô hạn ấy lại được miêu tả qua một không gian bao la. Cái nhỏ bé tương phản với cái mênh môngvô cùng:
- Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu nghĩa là cồn nhỏ bé thưa thớt buồn bã. Vần lưng nhỏ- gió kết hợp với láy âm lơ thơ và đìu hiu làm âm hưởng  lời thơ như nặng trĩu lòng người về một nỗi buồn hiu hắt cô quạnh
- Và nghệ thuật láy tài ba ấy đã gợi lên màu sắc cổ kính, dẫn hồn người đọc trở về với cổ thi:“Non quì quạnh quẽ trăng treo-Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”(Chinh phụ ngâm),”lơ thơ tơ liễu buông mành”(Truyện Kiều)
          - Chợ chiều vốn đã buồn,thì vãn chợ chiều lại càng  buồn hơn xao xác hơn  lại . Thế mà giờ đây cái âm thanh xao xác ấy dường như tác giả cũng không nghe thấy
- “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Câu thơ mang âm hưởng của một câu hỏi bộc lộ cái ngơ ngác của thi nhân với nỗi buồn cô quạnh chưá chất trong lòng.Và cũng chính câu hỏi ấy nó làm cho không gian có tiếng của con người nhưng thật thoảng thật mơ hồ.Âm thanh ấy chỉ càng gợi thêm không khí tàn tạ vắng vẻ chia lìa.
          Những câu tiếp theo,nỗi buồn không chỉ có ở mặt đất mà dường như nó còn bao trùm cả bầu trời:
                                                    Nắng xuống trời lên sâu chót vót
                                                    Sông dài trời rộng bến cô liêu
          Bầu trời và lòng sông là không gian ba chiều. Thường người ta nói:cao chót vót và sâu thăm thẳm. Nhưng Huy Cận lại viết
          - “sâu chót vót” để diễn tả độ cao, độ trong, độ sâu thẳm của bầu trời nhiều nắng, nhiều ánh sáng của trưa đã ngả sang chiều.Và không chỉ có không gian hai chiều nắng xuống trời lên, mà nó còn được mở rộng ra thành
-“sông dài trời rộng” không gian ba chiều Cả một không gian rộng lớn bao la mênh mông đến rợn ngợp.Và nổi lên trên cái khung nền ấy là
_“bến cô liêu”-bến sông nhỏ bé vắng người. Cái nhỏ bé của bến sông như một nét chấm phá gợi tả cái bao la bát ngát của khônggian. Qua đó càng tô đậm cảm giác cô đơn rợn ngợp của con người trước vũ trụ bao la .
 Khổ 3:  Trong không gian  buồn xa vắng đó ai cũng muốn tìm đến những dấu vết của cuộc sống con người
- “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”.Câu thơ gợi nhớ đến câu ca quen thuộc:bèo dạt mây trôi. Nó cũng gợi cho ta hình dung rõ nét về sự lênh đênh trôi nổi vô định, tan tác chia lìa của những kiếp người truân chuyên lưu lạc.
           Cái buồn càng được nhấn mạnh hơn bắng hai lần phủ định:
                                        Mênh mông không một chuyến đò ngang
                                                  Không cầu gợi chút niềm thân mật
                                        Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
- Không một cây cầu ,không một con đò nghĩa là hoàn toàn không bóng người hay một cái gì đó gợi đến tình người  Chỉ có màu vàng của bãi tiếp nối với màu xanh của bờ chạy dài về phía chân trời xa đến vô tận như hai thế giới cuả sự cô đơn xa lạ không chút niềm thân mật, không chút đồng điều tân hồn.
- Ở đây tác giả đã dùng thủ pháp nghệ thuật cổ điển: lấy không để nói có. Nhắc đến chợ chiều đã vãn, không có tiếng người, một dòng sông hoang vắng không cầu không đò làm cho ta càng tha thiết khát khao cuộc sống ấm cúng đông vui.
  Khổ 4:  Ở khổ cuối, Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho khoảnh khắc hoàng hôn trên sông nước tràng giang:
 Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
- Câu thơ thể hiện một cái nhìn xa vời vợi. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
+“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ “đùn”, khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi, và khi ánh chiều phản chiếu chúng lấp lánh như những núi bạc. Cảnh sắc thiên nhiên thật tráng lệ và kỳ vĩ. Bầu trời chắc là xanh thẳm hoặc tím thẫm trong khoảnh khắc hoàng hôn nên màu mây cuối chân trời mới ánh lên màu bạc ấy.
+Giữa cái bao la mênh mông ấy bỗng xuất hiện một cánh chim nhỏ nhoi:  
                          “Chim nghiêng cánh nhỏ  bóng chiều sa”
- Thơ ca xưa nói về cảnh hoàng hôn vẫn thường điểm  thêm một cánh chim trên nền trời.Ví dụ: Chim bay về núi tối rồi (ca dao), Chim hôm thoi thót về rừng (Nguyễn Du), Ngàn mai gió núi chim bay mỏi (Bà Huyện Thanh Quan),. Nhưng cánh chim trong thơ Huy Cận đúng là cánh chim chiều trong thơ mới. Bởi nó có sự đối lập giữa chim nghiêng cánh nhỏ với lớp lớp mây cao, giữa cánh chim nhỏ bé với vũ trụ bao la.Và sự đối lập ấy càng làm cho cảnh rộng hơn mênh mông hơn, xa vắng hơn. Cánh chim như ènhỏ nhoi hơn đơn lẻ hơn. Cánh chim ấy đang sa xuống phía chân trời như một tia nắng chiều rớt xuống. Tuy có hơi hướng của sự sống gợi chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng nhơ bé quá mông lung quá, vì thế nỗi buồn càng da diết thêm
           - Giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại
                                        Lòng quê dợn dợn vời con nước
                                        Không khói hoàng hôn cũng nhà.
Dợn dợn” là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê” :
                                        Không khói hoàng hôn cũng nhà.
Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.Câu thơ cũng gợi cho ta nhớ đến câu thơcủa Thôi Hiệu trong Hoàng hạc lâu:Yên ba giang thượng sử nhân sầu-Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà. Còn nhà thơ mới của chúng ta tuy không thấy khói sóng cũng nhớ nhà.Nên ènỗi buồn nhớ quê hương của nhà thơ cũng da diết hơn, cháy bỏng hơn.Và có lẽ chỉ đến thơ mới thì nỗi buồn nhớ quê mới có được cái cảm giác dợn dợn như thế  và theo Xuân Diệu: Tuy khôngkhói hoàng hôn nhưng chính là bằng cách ấy tác giả đã đưa thêm khói hoàng hôn của Thôi Hiệu vào bài thơ của mình để làm giàu thêm cái buồn và nỗi nhớ nhà của người lữ thứ trước cảnh tràng giang.
Cái tôi trong thơ mới tất nhiên là phải buồn. Thơ Huy Cận lại càng buồn hơn. Nhưng trong nỗi buồn cô đơn của nhà thơ ta vẫn thấy một niềm khát khao được gần gũi hoà hợp cảm thông giữa người với người trong tình đất nước, tình nhân loại )
 3. Kết bài
             Nếu Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong tất cả những nhà thơ mới thì Huy Cận là nhà thơ có công tô bồi cho lâu đài thơ mới càng thêm lồng lộng sáng đẹp. Là một nhà thơ mới nhưng Huy Cận đã hoà vào dòng chảy của Thơ mới một cách nhuần nhị những yếu tổ cổ điển của văn học trung đại Việt Nam, của Đường thi. Trong nỗi niềm “mang mang thiên cổ sầu” của người phương Đông xưa trước con người và vũ trụ, nhà thơ lồng vào đấy nỗi cô đơn của con người cá nhân ý thức cái tôi cá thể vừa tiếp thu được từ triết học và thơ ca phương Tây.. Cái tôi cá thể từ văn hoá văn học Pháp bước xuống cuộc đời để rồi cảm nhận nỗi cô đơn, bất lực của mình, nên ngoái nhìn về phía quê nhà, về phía truyền thống, mong cầu được sống vói cái ta làng xã ngày xưa. Thơ ông, do đó mà có sự hoà hợp giữa thi pháp thơ Đường với thi pháp thơ tượng trưng Pháp. 

 Đề 4: Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ Chiều tối (Hồ Chí Minh)

A. MỞ BÀI
- Hồ Chí Minh là nhà yêu nước, nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Đóng góp to lớn nhất của Người là sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh Hồ Chí Minh - nhà cách mạng, còn có Hồ Chí Minh - nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa lớn.
- Chiều tối là bài thơ tiêu biểu cho thơ trữ tình Hồ Chí Minh
 - Bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển và hiện đại
B/ THÂN BÀI
I/ GIỚI THIỆU CHUNG
1/ Xuất xứ
 - Bài thơ được rút trong tập Nhật kí trong tù
- Trên đường chuyển lao khổ ải từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), Bác Hồ viết liền năm bài thơ. Chiều Tối là bài thơ thứ ba trong chùm thơ này .
2/ Cổ điển và hiện đại trong bài Chiều tối
a. Giải thích cổ điển là gì?
Là những thi pháp, hình ảnh thơ cổ được sử dụng trong văn học, đó là truyền thống là tinh hoa của văn học dân tộc.
b. Cổ điển và hiện đại trong bài thơ: Bài thơ được sáng tác theo thể thơ Đường luật  thất ngôn tứ tuyệt. Vì thế nó mang đậm phong vị Đường thi ở bút pháp nghệ thuật lấy cảnh để ngụ tình, lấy động tả tĩnh, lấy ít gộ nhiều. Nhưng bài thơ còn được sáng tác bởi người Cộng sản Hồ Chí Minh nên bên cạnh phong vị cổ điển nó đây còn là một bài thơ  hiện đại. Chất hiện đại được bộc lộ ở sự vận động của hình tượng thơ, nhất là tấm lòng tư tưởng của thi nhân: yêu thiên nhiên, yêu con người, tinh thần lạc quan của Bác dù ở bất kì hoàn cảnh nào. Đó chính là chất thép lấp lánh trong thơ Hồ Chí Minh
3. Phân tích chứng minh
 1/ Bài thơ được mở đầu bằng một bức tranh phong cảnh thiên nhiên
                                        Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
                                         Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không
 Nhà thơ không trực tiếp nói về thời gian nhưng thời gian vẫn hiện về qua cảnh vật :
                                        Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chim bay về tổ đúng là dấu hiệu của chiều tối, chiều muộn.
Điều này ta thường thấy trong thơ ca : như: “chim bay về núi tối rồi”(ca dao); “chim hôm thoi thót về rừng”(Truyện Kiều); “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”(Bà Huyện Thanh Quan); “Mây vẩn tầng không chim bay đi”(Xuân Diệu); “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”(Huy Cận).
Có thể nói hình ảnh chim bay về tổ, về rừng sau một ngày kiếm ăn là hình ảnh tiêu biểu mang ý nghĩa thời gian  là cách cảm nhận thời gian mang tính truyền thống mang phong vị Đường thi.
Thời gian còn hiện về qua Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
 Hai chi tiết phác họa mà gợi lên cái hồn của cảnh vật, ngày tàn màn đêm buông xuống, tạo vật dần chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi,
Cũng ở hai câu thơ đầu, ta con cảm nhận không gian của bức tranh thơ là ở chốn núi rừng với ánh sáng của ngày tàn
 Ánh sáng làm nền cho khung cảnh thơ là ánh sáng mặt trời vào lúc sắp tắt hẳn ở chốn núi rừng nên trong ánh sáng như thế ta chỉ có thể nhìn thấy đỉnh trời. Người tù ngẩng đầu lên nhìn lên đỉnh trời, nhận ra con chim bay về tổ và chòm mây lững lờ trôi. Điều này nhà thơ không nói, nhưng người đọc có thể cảm nhận được như thế
Cảnh chiều hôm nơi xóm núi kia được đặc tả qua hai câu thơ thất ngôn vừa hình tượng vừa gợi cảm. Mặt đất thì âm u mà bầu trời thì rộng lớn thoáng đãng  
Hai câu thơ mang vẻ đẹp cổ điển:  Tả ít mà gợi nhiều, mượn điểm để vẽ diện, lấy động để gợi cái tĩnh, lấy cái cực nhỏ, đơn chiếc để diễn tả cái bát ngát mênh mông.
Nhìn chim bay, mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la hơn, cảnh chiều tối êm ả tĩnh lặng hơn. Và như vậy buổi chiều trên đường chuyển lao của tác giả sao mà phảng phất những buổi chiều mà hình sắc đã vĩnh viễn đọng lại trong thơ ca cổ.
Và tất cả đều chứa đầy tâm trạng. Cảnh bao giờ cũng ngụ tình : Cánh chim chiều của tác giả không phải đang bay trong trạng thái bình thường mà là :
 “Quyện điểu qui lâm”-“chim mỏi về rừng”. Suốt ngày bay đi kiếm ăn, cánh chim cũng mệt mỏi. Hình ảnh chim chiều nhưng cũng là  hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng của nhà thơ . Nhà thơ cũng mệt mỏi sau một ngày lê bước trên con đường đi đày. Giờ đây không biết đâu là chặng nghỉ chân qua đêm
Câu thơ thứ hai nhà thơ tiếp tục phác hoạ tâm trạng: chòm mây như có tâm hồn, như mang tâm trạng.
Nó cô đơn lẻ loi và lặng lẽ lững lờ trôi giữa không gian rộng lớn của trời chiều. Bầu trời có chim, có mây nhưng mây lẻ loi, chim mệt mỏi. Đã thế lại đang ở cảnh ngộ chia lìa. Chim bay về rừng, chòm mây ở lại giữa từng không.
Hai câu thơ tả cảnh mà mở ra cả một không gian tâm trạng, cảnh buồn, người buồn.
Vì cánh chim bay về tổ gợi niềm ước mong sum họp, chòm mây cô đơn trôi lẻ loi chầm chậm về phía trời xa gợi thân phận lênh đênh trôi dạt nơi đất khách quê người. Và không biết tới bao giờ nhà thơ mới được tự do như cánh chim và chòm mây trên bầu trời kia.
Nhưng cũng qua hai câu thơ này ta hiểu thêm được nét đẹp trong tâm hồn nhà thơ : Dù ở bất kì hoàn cảnh nào, dù phải sống giữa muôn ngàn cực khổ kể cả lúc thân thể mất tự do, Bác vẫn luôn giữ cho mình một tình yêu say đắm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, luôn hoà hồn mình vào hồn của trời đất rộng lớn với sự tự do tuyệt đối của tinh thần như Bác đã từng nói: Vui say ai cấm ta đừng, đường xa âu cũng bớt phần quạnh hiu. Và cũng qua nỗi buồn đó qua tư thế ngẩng đầu dõi theo một cánh chim một chòm mây, ta còn thấy một khát vọng tự do cũng như chất thép Hồ Chí Minh
 2/ Hai câu sau
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Nếu hai câu thơ đầu cảnh vật hiện ra trong những nét chấm phá phần nào mang tính ước lệ cổ điển với chim muông mây trời thì đến hai câu sau là  Cảnh sinh hoạt gần gũi và ấm áp trên mặt đất.
Hiện ra ở trung tâm bài thơ lúc này là một thiếu nữ sơn thôn với công việc lao động bên bếp lửa gia đình. Một chất thơ khác một hơi thở trữ tình khác làm cho vẻ đẹp của buổi chiều thêm hài hoà phong phú, làm cho bài thơ thêm dáng vẻ hiện đại hơn
Hai câu kết chuyển hướng vận động của hình tượng thơ. Ở trên, cảnh vật mênh mông, vắng lặng, ánh nắng ngày đang tắt dần, nhường chỗ cho bóng đêm ập xuống. Còn ở đây, dù không tả thời gian, nhưng ai cũng biết
 Đất trời đã vào đêm, bóng tối ken dày muôn nơi. Thời gian được vận động theo cánh chim và làn mây, theo những vòng xoay của cối xay ngô, quay mãi “Ma bao túc – Bao tức ma hoàn”, và đến khi cối xay ngô dừng lại thì “lô dĩ hồng, lò than đã rực hồng. Thực ra cái lò lửa ấy không phải đúng lúc đó mới bật sáng lên. Nó vẫn đỏ lên rồi, nhưng phải đến khi ánh trời tắt hẳn, núi rừng mù mịt thì tự nhiên con người ta chỉ nhìn thấy nơi đâu có ánh lửa. Và vì thế lúc xay ngô xong, trời tối hẳn nên mới nhìn thấy nó rực hồng lên Hình ảnh cô gái hiện ra bên bếp lò lửa đỏ đến với nhà thơ một cách tự nhiên như thế thôi. Và như thế, trong nguyên tác Bác không dùng chữ tối vậy mà ta vẫn nhận ra trời đổ tối. Bác dùng cái sáng để nói cái tối.
Bếp lửa của cô gái xay ngô đã hồng lên nghĩa là buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đêm tối. Nhưng không phải là đêm tối lạnh lẽo âm u như cảm nhận của người xưa mà là một đêm tối ấm áp sáng bừng rực lửa. Sự vận động của thời gian bất ngờ và khoẻ khoắn.
Cùng với sự vận động về thời gian ta còn thấy sự vận động trong tâm trạng của nhà thơ. Thực ra trong nhưng bài thơ vịnh cảnh chiều hôm xưa cũng thấp thoáng bóng người, cũng chứa đầy tâm trạng : Lom khom dưới núi tiều vài chú – Lác đác bên sông chợ mấy nhà. Cảnh có con người mà thiếu vắng sự sống. Con người chỉ làm tôn thêm cái hùng vĩ, hoang sơ của trời đất thiên nhiên. Còn trong bài thơ của Bác, trên nền cảnh của thiên nhiên rộng lớn, con người, sự sống của con người, ngọn lửa của con người bỗng trở thành tụ điểm, thành trung tâm toả ấm nóng và niềm vui ra tất cả.
 Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc lô dĩ hồng: có hình ảnh cô gái toát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh, sống động, có cảnh làm ăn bình dị : xay ngô, có lò than đã rực hồng. Các chi tiết nghệ thuật ấy làm hiện lên một mái ấm gia đình, một cảnh đời dân dã bình dị ấm áp
Và như vậy là không phải thiên nhiên làm chủ mà con người mới là chủ thể, con người đã kịp thắp lên ngọn lửa, con người đã tạo nên ánh sáng và hơi ấm cho con người, cho cảnh thiên nhiên. Chính cảnh xay ngô của thiếu nữ và lò than đã rực hồng kia đã làm vợi đi những đau khổ của người đi đày qua miền sơn cước xa lạ. Nó đưa lại cho người đi đường lúc chiều hôm chút hơi ấm của sự sống, chút niềm vui hạnh phúc trong lao động của con người. Nói cách khác, nó là điểm tựa tâm hồn cho một tù nhân Cộng Sản Hồ Chí Minh
Và cũng chính nhờ điểm tựa tâm hồn ấy mà Bác có thể cảm nhận  được một cuộc đời một con người dù là bình thường nhỏ bé nơi xóm núi heo hút trong hoàn cảnh ngặt nghèo của bản thân :
 Sơn thôn thiếu nữ  Ma bao túc – bao túc ma hoàn lô dĩ hồng là điệp ngữ vừa làm cho lời thơ giàu nhạc điệu, vừa diễn tả sự chuyển động vòng tròn nặng nề của cối xay ngô. Qua đó ta cảm nhận được sự trân trọng của nhà thơ trước đức tính cầm mẫn của thiếu nữ xóm núi
Bài thơ được sáng tác theo thơ Đường luật. Và Bác không chỉ tiếp thu tinh hoa của thơ Đường, mà còn nhà thơ còn đem vào hình thức chật hẹp của thơ Đường tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản lỗi lạc. Điều đó được thể hiện ở câu kết của bài thơ
Bài thơ không khép lại trong sự mệt mỏi vội vã của cánh chim, trong sự uể oải cô đơn của chòm mây, trong sự nặng nề của cối xay ngô ( ba câu thơ trên:  sự mệt mỏi, vội vã, nặng nề ) mà Bác khép lại bài thơ bằng một chữ  ( “hồng”). Bác đã làm sáng rực toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi uể oải, vội vã, sự nặng nề diễn tả ở trên, đã làm sáng rực cả khuôn mặt cô em xóm núi, nhuốm hồng lên cả bóng đêm bơỉ cái tình của  Bác.
Như vậy  tâm trạng của nhà thơ được vận động từ buồn đến vui từ lạnh lẽo cô đơn đến nóng ấm từ lụi tàn đến sự sống..
C. KẾT LUẬN:
Chỉ bằng bốn nét vẽ: cảnh chim chiều, áng mây lơ lửng trôi nhè nhẹ, thiếu nữ và lò than, Bác để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc trong thơ ca Việt Nam. Nhưng có lẽ không chỉ có thế mà qua bài thơ ta hiểu được tấm lòng yêu thiên nhiên, tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của Bác dù ở bất kì hoàn cảnh nào. Đó chính là chất thép lấp lánh trong thơ của Bác
 Đề 5: Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử0
I/ Mở bài
Hàn Mặc Tử (1912 – 1940 là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới (1932-1941). Do ông có một cuộc đời đầy đau thương nên hồn thơ của ông mãnh liệt nhưng quằn quại và đau đớn giữa linh hồn và thể xác. Mặc dù vậy, ông vẫn luôn gắn bó với cuộc đời, tạo nên những hình ảnh nghệ thuật tuyệt mĩ. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những kiệt tác tiêu biểu cho hồn thơ của Hàn Mặc Tử. Người đọc còn mãi ám ảnh bởi những vần thơ ấy
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
II/ Thân bài
1/ Xuất xứ
- Đây thôn Vĩ Dạ , được sáng tác vào khoảng năm 1938, in lần đầu trong tập Thơ Điên (về sau đổi tên thành Đau thương).
- Bài thơ lúc đầu có tên là Ở đây thôn Vĩ. Thi phẩm được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê ở thôn Vĩ Dạ tên là Hoàng Thị Kim Cúc.. Trong những ngày tháng vật lộn với cơn bệnh hiểm nghèo, Hàn Mặc Tử nhận được tấm bưu ảnh về phong cảnh xứ Huế có sông nước xứ Huế cùng những dòng chữ hỏi thăm của Hoàng Kim Cúc. Xúc động, bồi hồi trước tấm lòng cố nhân, Hàn Mặc Tử đã sáng tác bài thơ này.
- Bài thơ có 12 câu, chia làm 3 khổ, mỗi khổ thơ như một bức tranh tuyệt đẹp về xứ Huế mộng mơ. Và phải chăng đằng sau những bức tranh đẹp về xư Huế là tình yêu và niềm tự hào đối với quê hương đất nước của tác giả
2/ Phân tích, cảm nhận
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Mở đầu khổ thơ là một câu hỏi tu từ vừa dịu ngọt như lời mời chào vừa thân mật như một lời trách cứ đáng yêu : Rằng đã lâu sao anh không về chơi thôn Vĩ và …thăm em ?
Nhưng đâu chỉ là sự mời chào, sự nhẹ nhàng trách cứ mà ẩn sâu bên trong là cả một nỗi niềm nuối tiếc.
Nuối tiếc vì cảnh đẹp thế, người đáng yêu thế mà sao đã lâu anh không về chơi, tất cả được sống dậy trong hoài niệm của chàng trai. Và những hoài niệm đó gắn với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế.
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Cảnh được nói đến là một buổi bình minh. Nên :
+ Nắng mới lên là nắng buổi sáng sớm nhẹ nhàng tươi sáng, chiếu lấp lánh xuống những hàng cau, tàu cau còn ướt đẫm sương đêm.
+ Hai từ nắng trong một câu thơ đặt cách nhau gợi cho người đọc một cảm giác về sự chuyển động nhè nhẹ chầm chậm của ánh nắng ban mai.
Nắng lên, cỏ cây vườn tược như bừng sáng :
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
+ Cụm từ phiếm chỉ “Vườn ai” được đặt ở đầu câu thơ vừa dùng để hỏi nhưng vừa hàm ý bình phẩm xuýt xoa trước vẻ mướt quá, đẹp quá của vườn cây.Nhưng đồng thời nó cũng vừa hàm chút ngỡ ngàng bâng khuâng trong lòng tác giả : Vườn của nhà em đây hay vườn của nhà ai mà xanh thế, đẹp thế. Thực ra vẫn là vườn nhà em đấy thôi, vẫn là cảnh cũ người xưa đó thôi nhưng đã lâu chưa về chơi nên anh mới ngỡ ngàng trước sự mướt mát của cây cối mà thốt ra như vậy.
Mướt là sự êm mát mịn màng được cảm nhận bằng tay. Nhưng
+ Mướt quá của vườn cây lại được cảm nhận bằng mắt . Sự chuyển đổi cảm giác này, không chỉ gợi sự dịu dàng êm mát mơn mởn của cây lá trong vườn, mà còn như cho ta thấy sự xôn xao chuyển động của nhựa cây trong cây lá.
Vườn tược Vĩ Dạ xanh tươi bốn mùa và màu xanh đó được Hàn Mặc Tử ví :
+ Xanh như ngọc
Trong Thơ duyên, Xuân Diệu cũng đã từng viết : “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”. Xanh như ngọc của Hàn Mặc Tử là thứ xanh non của lá câu còn đẫm sương được khuyếch tán bởi những tia nắng mặt trời còn trinh bách nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi.
Cho nên hai tiếng mướt quá và hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” là những nét vẽ thần tình tô đậm cái hồn của cây lá trong vườn ai.
Và cảnh vật dường như sinh động hẳn lên khi thấp thoáng xuất hiện bóng người :
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Thấp thoáng sau những lá trúc mảnh mai thanh tú là khuôn mặt đầy đặn ẩn chứa bên trong bản chất hiền lành trung thực. Phải chăng chính sự thanh mảnh xanh biếc của lá trúc càng tôn thêm vẻ đẹp phúc hậu của gương mặt chữ điền. Và như thế, ở đây, nhà thơ đã lấy cái thanh mảnh để gợi cái mộc mạc.
Câu thơ như một bức hoạ thần tình khắc hoạ vẻ đẹp kín đáo đáng yêu của con người xứ Huế
Bức bưu ảnh và lời thăm hỏi của Hoàng Cúc là khởi hứng của bài thơ, làm nhà thơ sống dậy một kí ức đẹp về Huế với cảnh vật tươi sáng trong trẻo lạ thường. Vĩ Dạ được miêu tả trong một buổi hừng đông có màu phơn phớt của bình minh, có màu xanh mướt của cây lá, có đường nét thanh mảnh xinh xắn của lá trúc và còn có cả gương mặt phúc hậu của con người. Người đẹp, cảnh đẹp đó chính là cái hồn của Vĩ Dạ thơ và mộng. Trên cái nền phong cảnh đầy hương sắc ấy vấn vương một hoài niệm, một tiếng nói thì thầm của tình yêu.
III/ Kết luận :
Hàn Mặc Tử đã cho ta những vần thơ hay. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ, bao nhiêu hình ảnh và cảm xúc đẹp  hội tụ trong khổ thơ. Một câu hỏi “Sao” dịu ngọt; màu “nắng mới” tươi sang trong trẻo; cái màu xanh như ngọc của vườn ai, và cả sự mướt quá của cây lá Vĩ Dạ sẽ còn làm ám ảnh lòng ta và còn làm ám ảnh biết bao bạn đọc khác

Đề6: Lập dàn ý phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

I. Tìm hiểu chung
- Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới. Nội dung thơ thể hiện sự rạo rực đắm say 
- Đây là bài thơ thể hiện đầy đủ và đậm đà nhất phong cách thơ Xuân Diệu: hồn thơ nồng nàn sôi mổi, mạnh mẽ đến cuồng nhiệt – hồn thơ của tình yêu cuộc sống, niềm khát khao giao cảm với đời. Điều ấy được biểu hiên xuyên suốt bài thơ với những hình ảnh thơ táo bạo, cách diễn đạt lạ, mới, nhịp điệu thơ sôi nổi khẩn trương
- Bài thơ Vội vàng, nhà thơ diễn tả tình yêu cuộc sống bằng ngôn ngữ của tình yêu. Thứ ngôn ngữ ấy  khiến tình cảm nhà thơ vừa đắm say lại rất trần thế.

II. Phân tích
1. 4 câu đầu

- 4 câu thơ ngắn gọn, vang ngân một cách đĩnh đạc trang trọng:Tôi muốn…

- Người đọc bị bất ngờ bởi ý thơ táo bạo. Có cảm giác như thi nhân đang đi giữa đất trời với nắng và gió, với hương thơm và cỏ lạ và muốn tận hưởng tất cả.

-Hai điệp ngữ “tôi muốn” và điệp từ “cho” vừa là sự khẳng định vừa tạo âm điệu mạnh mẽ dứt khoát và đầy khát vọng. Nhà thơ muốn giữ nắng, giữ gió, giữ hương , quà tặng tuyệt diệu của tạo hoá ban cho con người.Nắng tắt thì ngày sẽ tàn ,gió bay sẽ đưa hương đi, nhà thơ muốn níu giữ thời gian trở lại

- Không chỉ mong muốn khát khao câu thơ còn chứa đựng cả sự khẩn cầu của nhà thơ: Đừng nhạt mất- đừng bay đi. Sự khẩn cầu ấy lặp 2 lần trong đoạn như muốn diễn tả niềm thiết tha của nhà thơ trứơc vẻ đẹp cuộc đời.

- Có lẽ hơn ai hết nhà thơ Xuân Diệu hiểu rằng những điều ông muốn, ông khát vọng trái ngược với qui luật khắc nghiệt của tạo hoá. Cũng như sau này khi là nhà thơ của Cách mạng, XD đã mơ ước có trăm vạn bàn tay, có trăm vạn trái tim để ôm trọn Miền Nam vào lòng.
-Như vậy chỉ 4 câu thơ đầu Xuân Diệu đã nói một cách đầy đủ nhất cảm xúc chủ đạo của bài thơ : để níu giữ vẻ đẹp của trần thể, níu giữ thời gian
 2. Từ câu 5 đến câu 12
-Nhà thơ phát hiện một thiên đường trên mặt đất: bướm ong, hoa lá, cỏ cây. Đó là những hình ảnh đẹp nhất chốn vườn trần.

- Nếu như các nhà thơ mới khác hoàn toàn mất vị trí, định hướng trong không gian địa lí và không gian tinh thần đi tìm niềm vui trong một thế giới khác: Chốn bồng lai tiên cảnh hay tháp ngà tình yêu, thậm chí quay về quá khứ đắm chìm trong điên loạn thì Xuân Diệu không chấp nhận lối thoát tiêu cực ấy, ông muốn chỉ cho chúng ta vẻ đẹp của cuộc đời trần thế, Điệp từ “Này đây” lặp nhiều lần, vừa liệt kê vừa như bày ra trước mắt người đọc những món ăn mà tạo hoá ban cho con người. Âm điệu “này đây” mỗi lúc một mạnh cho thấy sự hấp dẫn kì diệu, sức cuốn hút lạ lùng của một thế giới tưởng như bình thường.
 - Thế giới ấy ngày nào ta cũng thấy , cũng qua vậy mà XD khiến chúng ta phải ngạc nhiên như lần đầu mới gặp. Xuân Diệu đã nhìn thời giaan ấy bằng cặp mắt “xanh non, biếc rờn” để khám pha những bí ẩn của nó. Thiên đường ấy giàu có và phong phú vô cùng: Đồng nội xanh rì, cành tơ phơ phất,ánh sáng ..

Mỗi hình ảnh, sự vật đều toát lên sự sống mãnh liệt, sự trẻ trung hấp dẫn đồng thời thể hiện cái nhìn đầy thiện cảm, háo hức của nhà thơ trước cuộc đời trần thế.

- Xuân Diệu cũng mang cái buồn chung của thế hệ các nhà thơ mới, nhưng Xuân Diệu khác họ ở chỗ không nhìn thời gian  màu tang tóc buồn thương, trước sau Xuân Diệu vẫn là người yêu cuộc sống, và nếu có buồn chăng nữa cũng là bởi không được hưởng tất cả vẻ đẹp cuộc sống mà thôi.

- Đoạn thơ với hàng loạt những từ gợi cảm :Ong bướm, yến anh, tuần tháng mật , khúc tình si, cặp môi gần. XD nhìn cuộc sống bằng cặp mắt của tình yêu. Ong bướm, yến anh là những hình ảnh tượng trưng cho tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Tuần trăng mật gợi sự sung mãn, tròn đầy của hạnh phúc. Khúc tình si là cụm từ gợi được nhạc điệu say mê, du dương đắm đuối của tình yêu.

Xuân Diệu nói về tình yêu bao giờ cũng như một thứ tình cảm mãnh liệt, tuyệt diệu nhất. Nó vừa trần thế, vừa tinh khôi, vừa đồi hỏi một cách vô biên vừa tận hưởng tuyệt đích. Còn trong bài thơ này, nói về cuộc sống bằng ngôn ngữ tình yêu, Xuân Diệu như muốn nhắc nhở chúng ta một diều vô cùng quan trọng: cuộc sống cũng đẹp đẽ, đắm say như tình yêu đôi lứa. Nói một cách khác, trong thiên đường nơi trần thế, tuổi trẻ tình yêu vẫn là thứ đáng trân trọng nhất.

- Với nhà thơ, thiên đường trần thế lúc nào cũng là mùa xuân. Thời khắc lưu lại nhiều hương sắc xuân nhất chính là tháng giêng: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Mùa xuân, tháng giêng đồng nghĩa với sự trẻ trung, ắp đầy hạnh phúc. Cách so sánh ở đây thật táo bạo, mới mẻ. Mùa xuân là từ dùng chỉ thời gian. Thời gian được coi như có hình khối đường nét rõ ràng. Hơn thế nữa lại là hình ảnh tượng trung cho một tình yêu yêu rõ ràng nhất. Thêm vào đó tháng giêng còn được cảm nhận bằng vị giác: ngon được cảm nhận bằng khoảng cách: gần. Phải chăng về điểm này mà Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Và như vậy, thời gian đã được Xuân Diệu tình yêu hoá, cuộc sống đã được tình yêu hoá sao cho tràn trề hạnh phúc. Cuộc sống, tình yêu ở đâyy có hình khối đường nét cụ thể, có hương vị ngọt ngào say đắm. Chỉ có Xuân Diệu mới có cách cảm nhận độc đáo, riêng biệt như vậy. Trong thơ xưa, thi nhân thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của mọi vẻ đẹp, trong đó có vẻ đẹp con người. Với Xuân Diệu thì ngược lại. Ông lấy vẻ đẹp của con người trần thế làm chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp. Chỉ có con người là lung linh, nhất là đẹp nhất. Đây chính là quan niệm tiến bộ đầy chất nhân văn của nhà thơ về nhân sinh, về tình yêu và hạnh phúc. Vẻ đẹp ấy của con người như lan toả ra cỏ cây, hoa lá, chim muông. Có thể nói, thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu lúc này đã được con người hoá: ánh sáng chớp hàng mi, yến anh say khúc tình si… Mọi sự cựa quậy, sinh sôi của tạo vật gắn liền với sinh hoạt của con người. Sức xuân như đang trào dâng mãnh liệt nhất ở mọi lúc mọi nơi, mọi cảnh mọi vật và đặc biệt ở trong con người.

- Lắng sâu trong âm hưởng thơ là hồn thi nhân sung sướng mãn nguyện, mở rộng tấm lòng đón nhận tất cả những âm vang của đời. Mọi âm sắc, đường nét như được tận hưởng trọn vẹn bởi tấm lòng khao khát yêu cuộc sống của nhà thơ. Tác giả viết: Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa. Câu thơ tự nó đã tách ra làm đôi. Nửa thứ nhất vơi ba âm tiết vanh lên và khép lại cả thế giới thần tiên mà nhà thơ đã diễn tả ở trên. Nửa còn laị mở ra một trạng thái khác mà ranh giới chính là từ nhưng. Sau từ đó chính là một nốt lặng diễn tả cái sững sờ, bối rối của nhà thơ. Cái vội vàng một nửa ấy vừa là ham muốn được tận hưởng, vừa diễn tả một chút lo sợ, một chút hãi hùng. Nửa câu thơ ấy như là một ciếc bản lề đẻ nối tiếp ý thơ của phần sau. Xd đã tự đặt ty, cuộc sống của mình trong mối quan hệ với thời gian, đời người và thực sự cảm thấy hốt hoảng, bất lực. Tgian vẫn tuần hoàn, đời người một đi ko trở lại, đặc biệt là tuổi xuân càng không hai lần thắm lại. Từ nỗi lo lắng đến bàng hoàng này, nha thơ đã lý giải sự cuống quýt, vội vàng của mình ở khổ thơ sau. Và nếu xem bài thơ có kết cấu luận đề, thì câu thơ: Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa… là một phân giải giữa nguyên nhân và hệ quả. Vì quá đắm say cuộcđời mà cuộc đời không thể chờ đợi bất cứ điều gì thì chỉ còn một cách tận hưởng cho no nê, đã đầy tất cả mọi hương thơm trái ngọt mà tạo hoá ban tặng. Toàn bộ phần còn lại của thi phẩm minh chúng cho nhan đề của chính nó.

3.Từ câu 13 đến câu 30

- Diễn tả tâm trạng hoài xuân của thi nhân

- Sống giữa mùa xuân, cuộc đời tuổi trẻ, thiên nhiên mà lòng ko hề thanh thản: Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân ….
Đang giữa ngày xuân nhưng thời gian vẫn nghĩ rằng đến một ngày xuân qua hạ tới. Có nghĩa là nhà thơ luôn đăth mình trong dòng chảy bất tận của thời gian mà ham muốn, mà yêu cuộc sống, mà ngẫm mghĩ về cái hữu  hạn của đời người.
- Với nhà thơ khát vọng níu giữ thời gian chỉ là khát vọng. Nhà thơ luôn cảm thấy bước đi của t/g lạnh lùng và khắc nghiệt: xuân tới, xuân qua, xuân non, xuân già. Và cả mùa xuân của đời người cũng đương qua. Điều này cho thấy trong thơ Xuân Diệu luôn có một quan niệm mới về thời gian. thời gian không tuần hoàn, không tĩnh lặng như trong thơ trung đại “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại”. Thời gian là dòng chảy vô cùng vô tận. Không ai có thể uống nước 2 lần trên một dòng sông. Đời người cũng vậy, chảy trôi trong sinh - lão – bệnh – tử. Đời người thật hữu hạn trước cái vô cùng vô tận của thời gian.

- Xuân Diệu không tin và thuyết nhân quả và hồi sinh của đạo phật. Ông luôn ám ảnh bởi mùa xuân sẽ qua đi không bao giờ trở lại. Con người sẽ vĩnh viễn trở về cát bụi, cảm nhận điều đó, nhà thơ quay ra hờn trách tạo hoá: “Nói làm chi…còn tôi mãi
Sự trách móc ấy thực ra là những cảm xúc của nhà thơ đã lên tới đỉnh điểm với khát vọng muốn phá tung tất cả mọi giới hạn của đời sống và cả  những quy luật khắt khe của đời sống để trường tồn, bất tử .
- Trong cảm hứng nuối tiếc xót xa ấy, nhà thơ tiếp tục diễn tả tâm trạng hoài xuân của mình: Còn trời đất… Phải chăng …sắp sửa.
Thế giới đang rộng mở trước mắt chúng ta với núi sông, lá biếc, gió xinh, hoa nở chim hót..Nhưng giờ đây không phải là bức tranh sự sống, nhà thơ cảm nhận thiên nhiên, đất trời tạo vật cũng có tâm trạng như chính mình. Chúng cũng linh cảm thấy sự chia phôi, sự tiễn biệt, phai tàn sắp sửa xảy ra. chúng dường như cũng đang hờn giận trách móc tạo hoá.
Cái nhìn thời gian cái nhìn cảnh vật xung quanh cho thấy nỗi sợ hãi trong tâm hồn nhà thơ. Nó không còn mơ hồ nữa mà trở nên rõ nét, rõ ràng,và hùng hồn hơn. Nỗi sợ của con người ham sống.
 4. Phần còn lại của bài thơ Vội Vàng.
 - Giọng điệu của đoạn thơ đột ngột thay đổi. ở đoạn trên là âm hưởng trầm buồn nay trở nên cuống quýt, vội vã, sôi nổi.
 - Cảm xúc thơ ở đây là hệ quả tất yếu của những nhận thức về tgian ở đoạn trên. Đặt mình giữa dòng chảy của tgian mà tiếc cho cuộc đời không thể kéo dài, đồng thời Xuân Diệu cũng không muốn một cuộc sống vô nghĩa. Nhà thơ như giục giã chính mình: Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm. Mau đi thôi để chạy đua với thời gian, chạy đua cùng tuổi trẻ cùng màu xuân của cuộc đời. Nhà thơ sợ chiều tà ngả bóng, sợ tuổi già, sợ tuổi xế chiều một mình với chiếc bóng âm thầm lặng lẽ, sống mà chỉ như tồn tại, ko hưong sắc, không tình yêu… Cảm xúc này còn được Xuân Diệu thể hiện ở nhiều bài thơ khác, nhất là những bài thơ nói về tình yêu.

“Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ
Em em ơi tình non sắp già rồi”.
“Mau lên chứ vội vàng lên với chứ
Em ơi em anh rất sợ ngày mai”.

Khát vọng cháy bỏng ấy đã khiến nhà thơ tự đề cho mình một phong cách sống:

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Đây là một tuyên ngôn sống đúng nghĩa với với tâm hồn Xuân Diệu. Đây cũng là phong cách  riêng  của Xuân Diệu trong thi ca.
 Ba chữ Ta muốn ôm được tách ra thành một dòng thơ rất ngắn nhưng lại như một sự dồn nén cảm xúc. Giọng thơ cũng hết sức trang nghiêm, đĩnh đạc nhưng vẫn không giấu nổi cảm xúc dâng trào. Vẫn là cảm xúc dâng trào nhưng tác gỉa không dùng đại từ Tôi mà dùng chữ Ta. Cái tôi cá nhân đã trở thành cảm xúc chung của cả một thế hệ. Mặt khác cái tôi ấy dường như còn nhỏ bé, cô đơn nên Xuân Diệu muốn có cái ta mênh mang rộng lớn.  Dù như vậy tác giả vẫn thấy chưa thật đủ. Dù đã hoà mình vào thế giới của đam mê, của đắm say, rạo rực, đang vận động ko ngừng cùng nhịp sống Xuân Diệu vẫn còn khao khát. Cái tham đầy cá tính và nhân bản ấy là biểu hiện của một ý thức đúng đắn về cuộc sống.
 - Khi hiểu giá trị đích thực của cuộc sống Xuân Diệu muốn dang đôi tay bé nhỏ của mình đê ôm trọn yêu thương của đời. Khát vọng lớn lao ấy được nhà thơ thể hiện qua điệp từ Ta muốn và mỗi lần nhắc lại là một lần cảm xúc dồn nén hơn, dâng trào hơn.
 Bình luận
Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” . Đã hơn hai mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng “tấm lòng trần gian” của ông dường như vẫn còn ở lại. Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì!
 Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà thơ mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”, một Nguyễn Bính với “mùa xuân là cả một mùa xanh…”. Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa sống.
 Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái của Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuốn quýt”. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tên Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự họa của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình.
Thực ra, cái điệu sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là một kết cục không tránh khỏi mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao diệu kỳ. Mà sống là phải tận hiến và tận hưởng! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.
Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng về cảm xúc rất “ngại” đi cùng chính luận. Ấy thế nhưng nhu cầu phô bày tư tưởng, nhu cầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển nhiên là loại thơ xúc cảm. Nhưng đọc kỹ sẽ thấy rằng thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc làm nên cái nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mây trôi, nước chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên cái tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. Vội vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột cuốn theo bao hình ảnh thi ca như gấm như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh họa cho triết học. Mà đó chính là minh triết của một hồn thơ.
Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của Vội vàng. Thi phẩm khá dài nhưng tự nó hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt vào ba chữ “Ta muốn ôm”. Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng. Phần dưới là bộc lộ cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ: trên là lý thuyết, dưới là thực hành! Điều rất dễ thấy là thi sĩ chọn cách xưng hô cho từng phần. Ở trên, xưng “tôi”, lập thuyết đối thoại với đồng loại. Ở dưới, xưng “ta”, đối diện với sự sống. Phần luận lí có xu hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ dào dạt, sôi nổi đã xóa mọi cách ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm.
 III. Kết luận
Có thể nói Xuân Diệu qua bài thơ này không chỉ "sống" hay "ham sống" mà ông "say sống". Sống mãnh liệt, hối hả kẻo nữa lại tiếc nuối - Đó là một nhân sinh quan lành mạnh. Nó khác với sự nguội lạnh, hờ hững, lạt lẽo. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước "thanh sắc trần gian" một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống.Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc phải sống vội vàng. Thế là, vội vàng là cách đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc, và hình như cũng là cái giá phải trả cho hạnh phúc vậy ! Ta hiểu vì sao khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ.

Đề 7: Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
HƯỚNG DẪN
I. MỞ BÀI
Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ. Ông được mệnh danh là “ông hoàng của thi ca tình yêu”. Trước cách mạng, với hai tập “Thơ Thơ” và “Gửi hương cho gió”, Xuân Diệu đã chính thức trờ thành “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ” là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ tình yêu của Xuân Diệu viết về mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu. Tác phẩm để lại dấu ấn về nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là đoạn thơ sau đây:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
II. THÂN BÀI
1. Khái quát: Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ”, xuất bản năm 1938 là bài thơ tiêu biểu của tập thơ nói riêng, của hồn thơ Xuân Diệu nói chung. Cả bài thơ thể hiện một nhân sinh quan mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Thiên đường là ở ngay trên mặt đất. Vì vậy hãy yêu mến, hãy gắn bó và sống hết mình với cuộc sống thực tại đầy tươi vui này. Nó bộc lộ niềm ham sống, khát sống, tận hưởng đến vô biên và tuyệt đích của thi nhân:
2. Đoạn thơ mở đầu bằng bốn câu thơ ngũ ngôn chứa đựng những khát vọng mãnh liệt và táo bạo của thi nhân:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Bốn câu đầu có lẽ là độc đáo nhất trong bài thơ vì chỉ riêng nó là thể ngũ ngôn. Nó là thể thơ phù hợp cho việc thể hiện những cảm xúc vồ vập của Xuân Diệu bởi câu thơ ngắn lại giàu nhịp điệu. Điệp ngữ “tôi muốn” được nhắc lại hai lần cùng với đó là hai động từ mạnh “tắt, buộc” đã làm nổi bật khao khát của nhà thơ. Đó là khao khát “tăt nắng, buộc gió” để giữ lại màu hoa “Cho màu đừng nhạt mất” để giữ lại sắc hương “ cho hương đừng bay đi”. Đó là khát vọng chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa để buộc hương hoa tươi thắm mãi bên đời. Ngông cuồng hơn cả là nhà thơ muốn vũ trụ ngừng quay, thời gian dừng lại để thi nhân tận hưởng được những phút giây tuổi trẻ của đời mình. Bởi nhà thơ sợ “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, sợ ”đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn”. Suy cho cùng khát vọng ấy của Xuân Diệu thật ngông cuồng nhưng cũng rất hợp lí.
3. Bảy câu thơ tiếp theo, với tâm hồn khát sống, khát yêu, tận hiến, tận hưởng và khát khao giao cảm mãnh liệt, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp xuân tươi phơi phới, đầy tình tứ ở những cảnh vật thiên nhiên quen thuộc quanh ta:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Bảy câu thơ trên là một bước tranh thiên nhiên mùa xuân được vẽ nên bằng một hồn thơ có “Cặp mắt xanh non biếc rờn”. Cảnh vật đang vào độ thanh tân, diễm lệ. Bức tranh hội tụ đầy đủ hương thơm, ánh sáng và màu sắc, âm thanh ( đây chính là phép tương giao giữa các giác quan mà Xuân Diệu học được ở thơ ca phương Tây). Cảnh vật hiện lên đều có đôi, có cặp:” Ong bướm- tuần tháng mật” ;“Hoa- đồng nội xanh rì” ;” lá- cành tơ” ;” yến anh- khúc tình si”;…
Điệp ngữ ”này đây” được nhắc lại nhiều lần. Từ ”này đây” lại là từ chỉ trỏ. Xuân Diệu như đang đứng trước bức tranh và liệt kê cho ta thấy vẻ đẹp tươi non, nõn nà của mùa xuân. Thi sĩ như uốn nói với chúng ta rằng: ”Sao người ta cứ phải đi tìm chốn Bồng Lai Tiên Cảnh ở mãi chốn mông lung hão huyền nào? Nó ở ngay giữa cuộc sống quanh ta”. Thiên nhiên như một bữa tiệc trần gian đầy những thực đơn quyến rũ: Ở đó có cảnh ong đưa và bướm lượn, tình tứ ngọt ngào như “tuần tháng mật”. Màu hoa trở nên thắm sắc ngát hương hơn “giữa đồng nội xanh rì”. Cây cối nảy lộc đâm chồi tạo nên những “cành tơ” với những chiếc lá tươi non phất phơ tình tứ. Điểm vào phong cảnh ấy là tiếng hót đắm say của loài chim yến anh đã tạo nên “khúc tình si” say đắm lòng người.
Cặp mắt “xanh non biếc rờn” của Xuân Diệu còn mang đến cho người đọc một nguồn năng lượng mới từ mùa xuân: ”Và này đây ánh sáng chớp hàng mi/ Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa”. Ánh sáng buổi sớm mai như phát ra từ cặp mắt đẹp vô cùng của nàng công chúa có tên là Bình Minh. Nàng vừa tỉnh giấc nồng suốt một đêm qua, mắt chớp chớp hàng mi rồi bừng nở ra muôn vàn hào quang. Chính ánh sáng ấy đã tưới lên cảnh vật càng làm cho bức tranh thiên nhiên giống như một nguồn nhựa sống chảy dào dạt xung quanh cuộc sống của con người. Thế mới hiểu những khao khát của Xuân Diệu là đúng:
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất”
Hoặc có khi ông khao khát đến cháy bỏng:
“Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời”
Xuân Diệu đã kết lại bức tranh mùa xuân bằng một câu thơ đầy gợi cảm “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Đây là một cách so sánh đầy gợi cảm, có một chút nhục cảm. Tháng giêng thanh tân, diễm lệ, đầy ánh sáng, màu sắc, âm thanh và hương thơm trờ thành “cặp môi gần” rất “ngon, ngọt” của người tình nhân. Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm. Tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất của đời người. Và chắc chắn phần ngon nhất của người thiếu nữ là bờ môi chín mọng kia.
Ở đây, trong sự so sánh giữa thiên nhiên và con người, Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một quan niệm nghệ thuật về con người rất mới mẻ. Thơ ca cổ điển thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp. Mọi cái đẹp trong vũ trụ phải đem so sánh với cái đẹp của thiên nhiên. Bởi vậy khi miêu tả nét đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du đã lồng vào biết bao nhiêu cái đẹp của thiên nhiên:
“Vân xem trang trọng khác vời/Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang/Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”. Còn Xuân Diệu đưa ra một tiêu chuẩn khác: con người mới là chuẩn mực của cái đẹp trong vũ trụ này. Bởi con người là tác phẩm kì diệu nhất của tạo hóa. Nên mọi vẻ đẹp trong vũ trụ phải đem so sánh với vẻ đẹp của con người. Quan niệm nghệ thuật này là một đóng góp mới mẻ của
4. Hai câu thơ cuối là tâm trạng của nhân vật trữ tình:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Trong một câu thơ mà thi sĩ có hai tâm trạng “Tôi sung sướng” - “Nhưng vội vàng một nửa”. Dấu chấm ở giữa câu đã phân tách nhà thơ thành hai nửa: nửa sung sướng và nửa vội vàng. Tâm trạng “sung sướng” là tâm trạng: ” hạnh phúc, lạc quan, yêu đời, tươi vui đón nhận cuộc sống bằng tình cảm trìu mến, thiết tha gắn bó. Còn “vội vàng” là tâm trạng tiếc nuối bởi nhà thơ sợ tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới. Vì thế dù đang sống trong mùa xuân nhưng thi nhân đã cảm thấy tiếc nuối mùa xuân ngay khi đang ở trong mùa xuân “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
5. Tổng kết nghệ thuật: Đoạn thơ để lại dấu ấn nghệ thuật sâu sắc. Thể thơ tự do, sử dụng nhiều điệp ngữ, điệp từ, so sánh ẩn dụ… Ngôn ngữ thơ chọn lọc. Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hay mang đậm phong cách thơ Xuân Diệu.
III. KẾT BÀI
Tóm lại, đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ “Vội vàng”. Bằng ngôn ngữ rất đỗi Tây phương, nhưng tình cảm của nhân vật trữ tình lại rất gần gũi, thân quen. Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một giọng thơ lạ, một cách cảm nhận về mùa xuân rất đỗi nồng nàn. Qua đó thấy được lòng yêu đời và khát vọng sống mãnh liệt của thi nhân. Đúng như nhà phê bình Thế Lữ đã nhận xét “Như một tấm lòng sẵn sàng ân ái, Xuân Diệu dang tay chào đón nhựa sống rào rạt của cuộc đời”.
Đề 8: Một trong những nội dung bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) là “ tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống”. Anh / chị hãy phân tích đoạn thơ sau để làm rõ nhận định trên.
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
                                      (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử)
 Đáp án - Hướng dẫn làm bài
I1. Mở bài
- Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ Mới .
- Vài nét về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
- Dẫn nhận định và đoạn thơ
B. Thân bài
a. Giải thích vấn đề:
   - Đây thôn Vĩ Dạ chính là một tình yêu tuyệt vọng đối với cuộc sống. Điều này đã trở thành ngọn nguồn cảm xúc làm nên bài thơ. Cuộc sống trong cái nhìn của Hàn Mặc Tử chính là sự sống nói chung, sự sống thuộc về cảnh sắc thiên nhiên, con người tình yêu đôi lứa.
   - Vào thời điểm mà Hàn Mặc Tử đang trải qua cơn bạo bệnh, thì như một nghịch lí càng tiến về phía cõi chết, nhà thơ càng yêu cõi sống, yêu một cách cuồng si, đau đớn và tuyệt vọng. Đó chính là một tình yêu lớn đối với sự sống bất tử.
 b. Phân tích khổ thơ
           Nỗi đau đời người, nỗi đau tình người, khát vọng sống, khát vọng tình yêu dâng lên ở đỉnh cao trong khổ thơ cuối của bài thơ.
Khổ 3 nói tới hình bóng một giai nhân trong mộng ảo:
Mơ khách đường xa, khách đường xa.
Giấc mơ nhiều khi rất đẹp để rồi nuối tiếc mãi khi tỉnh dậy, không phải là hiện thực. Giấc mơ có khi lúc tỉnh chẳng bao giờ nghĩ tới, thật khủng khiếp! Giấc mơ đa phần được tạo lập từ sự nghĩ nhiều, cảm nhiều về một việc gì đó, một người nào đó. Giấc mơ của thi nhân là một giấc mơ đẹp mà buồn, tiếc vô cùng. Trong giấc mơ, giai nhân hiện ra đấy mà thấy xa vời vợi. Điệp ngữ “khách đường xa, khách đường xa” đẩy người mơ và giai nhân cách xa nhau trong cái khoảng không gian ngày càng vô vọng. Mong chờ khát vọng, đợi trông càng nhiều thì bóng hồng giai nhân càng mờ xa, mất hút.
Cái sắc trắng của áo trong câu thơ: “Áo em trắng quá nhìn không ra” đâu còn là sự cảm nhận của thị giác mà là sự cảm nhận của cảm giác, bởi bóng hình giai nhân đâu có hiển hiện thật rõ trong giấc mơ mà chỉ hiển hiện bồng bềnh, bảng lãng…Nhưng mà cái sắc trắng của áo em vẫn cứ mãi mãi khắc trọn trong đáy sâu tâm hồn thi sĩ, yêu và thiết tha với nó muôn vàn. Vì nó mà sống, mà nhớ, mà thương,  mà ao ước ngưỡng vọng đến đam mê cả lúc tỉnh lẫn khi mơ. Rồi lại cũng vì cái sắc trắng ấy của áo em mà thi nhân đau đớn xót xa vô cùng. Sắc áo trắng không còn là cái vật thể bên ngoài của hình hài em mà là biểu tượng của đáy sâu tâm hồn em vậy. “Kim mò đáy đại dương”, “Áo trắng quá, anh nhìn không ra”, xót đau biết nhường nào! Sao có thể hiểu thấu lòng em, biết tim em đập theo nhịp nào? Có thổn thức hòa điệu trong nhịp đập với trái tim thi nhân? Làm sao mà biết được – Bi kịch cuộc đời, tình yêu dồn nén tới đỉnh cao trào. Sự cắt nghĩa của thi nhân trong hai câu thơ kết bài thơ về cái nhìn “không ra” của mình: 
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
 Ai biết tình ai có đậm đà?
cũng chỉ là một sự cắt nghĩa phỏng đoán, hoài nghi, giả định mà không hề khẳng định.
Có cả hai nguyên nhân : do “Sương khói mờ nhân ảnh” hay do “sự bí ẩn của trái tim” mỹ nhân sau tà áo trắng?
Trong hai nguyên nhân ấy, nguyên nhân nào là chủ yếu? Mối quan hệ của hai nguyên nhân đó thế nào?
Tất cả đều do thi nhân tưởng thế, nghĩ thế và tự vấn mình như thế! Hư hư thực thực không biết nguyên do nào là chính. Và vì hư thực như thế nên cõi lòng càng bâng khuâng, day dứt, dằn vặt đau đớn. Sương khói của thiên nhiên xứ Huế, thật thế ư làm mờ ảo bóng hình giai nhân! Chắc là không phải. Có thể một thứ “sương khói” khác ảo mờ giăng màn trước cõi lòng thi nhân - thứ sương khói của sự chênh vênh, chới với giữa biển đời mênh mông mà thi nhân đang tìm cách bấu víu để tồn tại. Và chính ở cái thời khắc chới với ấy, rộn lên như dồn cuốn cảm xúc và tinh lực để bật ra một câu hỏi chủ đạo nhất biểu hiện nỗi đau lớn, niềm khát vọng lớn của thi nhân: 
                                                  Ai biết tình ai có đậm đà?
Ai” và “ai” trong câu thơ, lối nói bâng qươ – cách  biểu hiện của đại từ phiếm chỉ như không chỉ vào một đối tượng cụ thể nào. Sự thực không phải thế. Người đọc thơ Hàn Mặc Tử có thể nhận ra trong cái nét tinh tế ấy, “ai” thứ nhất chính là thi nhân - và cũng là những con người yêu đời, yêu người, đau đời, đau tình người như thi nhân; “ai” thứ hai trong câu thơ là giai nhân, những giai nhân – biểu tượng của tình yêu, của cái đẹp, của cuộc đời. Câu hỏi chưa có lời đáp gieo trong lòng người đọc sự hòa điệu tâm trạng day dứt của thi nhân - Nỗi buồn đau lan tỏa, tràn đầy, thấm vào từng tế bào, từng mạch máu đến quằn quại, nhức nhối. Đây là câu hỏi của trái tim và đó cũng là câu hỏi muôn thuở của tất cả những người đang yêu càng thiết tha, càng day dứt, dằn vặt:
“Hoa ơi sao chẳng nói?
Anh ơi sao lặng thinh?
Đốt lòng em câu hỏi
Yêu em nhiều không anh?”
(Xuân Quỳnh – Mùa hoa rơi)
c. Bình luận
Đây thôn Vĩ Dạ - ba khổ thơ - ba câu hỏi - Một nỗi đau - Nỗi đau cứ tiếp nối, chất chồng, đè nặng lên nhau. Hình ảnh thơ, giọng điệu, bút pháp có thể thay đổi và sự chuyển đổi tứ thơ bất ngờ, đột ngột chỉ càng chứng tỏ một tài thơ điêu luyện bậc thầy. Mạch tứ phát triển nhất quán, chặt chẽ tạo cho sự biểu hiện tư tưởng nghệ thuật ngày càng hoàn thiện trong sự tinh tế và độc đáo. Đi suốt bài thơ, thi nhân hiện hữu với tư cách là một con người tha thiết yêu cuộc sống, tha thiết yêu đời, tha thiết yêu người, yêu một tình yêu và cũng vô cùng tha thiết mong được cuộc đời, con người, tình yêu đáp lại. Khát vọng ấy là đẹp đẽ và cao cả vô cùng, nhân văn vô cùng!
Đó là một nguyên cớ để ta yêu bài thơ và quý trọng Hàn Mặc Tử.
Nhưng ta đến với Đây thôn Vĩ Dạ, đến với Hàn Mặc Tử  không phải đi trên con đường phẳng thênh thang đầy hương sắc của hương đồng cỏ nội. Con đường ta đến với Đây thôn Vĩ Dạ nói riêng, đến với thơ Hàn Mặc Tử nói chung là con đường hòa điệu xót xa một nỗi đau trĩu nặng, tê tái, khắc khoải đến rợn người. Biết là phải cùng hành trình với thi sĩ trên con đường như thế mà ta chẳng chối từ. Càng yêu trọng một đời tài hoa mà bất hạnh, ta càng trân trọng nâng niu từng tác phẩm, từng dòng thơ mà ở đó là sự kết tụ tài năng sáng tạo của một bậc thầy, kết tụ máu thịt, tâm linh và cả sinh mệnh nữa của một hồn thơ mang cái tên Hàn Mặc Tử !   
3. Kết bài
   Cũng như làng cảnh, sông nước, vầng trăng, con thuyền, bến bãi kia không bao giờ thuộc về thi sĩ, giữa thi sĩ và chúng là một khoảng cách tuyệt vọng, thì với cô gái ấy cũng y như thế. Rơi vào tuyệt vọng nhưng tình yêu không chết ngược lại tình yêu càng trở nên da diết, đau đớn... Một người yêu sự sống, khát sống như thế mà sự sống trong anh đang dần tắt. Vì là tiếng của tình yêu tuyệt vọng, nên Đây thôn Vĩ Dạ mang âm điệu nghẹn ngào, khắc khoải.
Đề 9:  Một trong những nội dung của bài thơ Vội vàng là “Cảm nhận về thiên nhiên, cuộc sống với những quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu”. Phân tích đoạn thơ sau để làm rõ nhận định trên
Tôi muốn tắt nắng đi 
Cho màu đừng nhạt mất; 
Tôi muốn buộc gió lại 
Cho hương đừng bay đi. 

Của ong bướm này đây tuần tháng mật; 
Này đây hoa của đồng nội xanh rì; 
Này đây lá của cành tơ phơ phất; 
Của yến anh này đây khúc tình si. 
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi; 
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa; 
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần; 
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa: 
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. 
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua, 
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già, 
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất. 
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, 
Không cho dài thời trẻ của nhân gian, 
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, 
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, 
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
                                                         (Vội vàng- Xuân Diệu) 
 Hướng dẫn
A. Mở bài
 - Khái quát vài nét về tác giả Xuân Diệu
- Dẫn nhận định
- Dẫn đoạn thơ
B. Thân bài
a.  - Khái quát bài thơ Vội vàng
b. - Khái quát nội dung nhận định
Quan niệm mới mẻ cua Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc
- Xuân Diệu yêu cuộc sống nhưng đó là cuộc sống nào? Đó là cuộc sống trần thế xung quanh nhà thơ. Nó thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ của nhà thơ, như Hoài Thanh đã nhận xét: “Với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xa xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới”(Thi nhân Việt Nam). Chính vì yêu cuộc sống đời thường quanh ông, Xuân Diệu đã phát hiện ra trong cuộc sống đó những nét đẹp thật tinh tế, đáng yêu, giàu chất thơ. Một quan niệm như thế ở một nhà thơ lãng mạn thật mới mẻ và đáng trân trọng.
- Xuân Diệu yêu tuổi trẻ và  biết quý tuổi trẻ của mình bởi đây là quãng thời gian đẹp và đáng sống nhất, có nhiều hạnh phúc nhất của cuộc đời một con người.
- Xuân Diệu quan niệm hạnh phúc không ở đâu xa (hoặc ở một cõi khác) mà chính là ở quanh ta, ở sự sống quen thuộc của trần thế khi được cảm nhận một bức tranh thiên nhiên đẹp của hoa lá đồng nội, của ong bướm, chim chóc,.. Vì vậy, phải biết giữ lấy hạnh phúc, giữ lại những vẻ đẹp của cuộc sống cho mình.
Chính vì thế, nhà thơ đã có một cách sống vội vàng để tận hưởng hạnh phúc của tuổi trẻ, của mùa xuân.
c. Phân tích, chứng mính
d. Bình luận vấn đề
C. Kết bài: Nhận xét chung về cách thể hiện nội dung tư tưởng của Xuân Diệu trong đoạn thơ.