Mộ của Hồ Chí Minh
I.
Tìm
hiểu chung
Chiều
tối là bài thơ thứ 31 trong tập thơ “Nhật kí trong tù”cảm hứng được gợi ra từ
cuộc chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo
Chiều
tối là tâm điểm kết thúc một ngày đi với “53 cây số một ngày – Áo mũ dầm mưa
rách hết giày” đó là lúc mệt mỏi nhất. Vậy mà Bác vẫn có thơ, lại là thơ hay.
Điều đó thể hiện bản lĩnh, tài năng của thi sĩ, chiến sĩ vĩ đại.
II. Phân tích
1. Hai
câu đầu- khung cảnh thiên nhiên lúc trời tối
Bác không nói chiều mà người đọc vẫn nhận ra cảnh chiều bởi
người đã vẽ lên một bức tranh cảnh vật với cánh chim chiều mỏi mệt đang bay về
tổ và chòm mây lẻ loi đang lơ lửng giữa tầng không bằng những nét chấm phá, Bác
đã gợi ra khung cảnh thiên nhiên mang đậm dấu ấn cổ điển phương đông. Hình ảnh
chim bay về tổ, về núi thường mang ý nghĩa biểu tượng cho chiều tà:
Chim
bay về núi tối rồi
(Ca dao)
Chim hôm thoi thót về rừng
(Nguyễn Du)
Trong thơ Bác cũng thế: “Chim
mỏi về rừng tìm chốn ngủ” – vừa là một nét phác họa không gian vừa gợi ra ý
niệm thời gian
Mặc dù vậy, hình tượng cánh chim trong thơ Bác không chỉ được
quan sát ở trạng thái vận động bên ngoài như trong thơ xưa “cánh chim bay” mà
còn được cảm nhận rất sâu ở trạng thái bên trong “cánh chim mỏi mệt” có thể
thấy một sự gần gũi tương đồng giữa cánh chim mỏi mệt sau ngày kiếm ăn. Với
người tù đã thấm mệt sau một ngày vất vả lê bước đường trường. Ngoại cảnh cũng
chính là tâm cảnh trong ý thơ cũng có sự hòa hợp giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh
vật tự nhiên. Cội nguồn của sự cảm thông ấy là nguồn yêu thương mênh mông của
Bác dành cho mọi sự sống trên đời.
Hình ảnh “chòm mây trôi
nhẹ giữa tầng không” gợi nhớ câu thơ của Thôi Hiệu trong bài “Hoàng hạc Lâu”: “ ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay” và thơ Nguyễn Khuyễn: “Tầng mây lơ lửng” vẫn là một thi hiệu
quen thuộc nhưng mây trong thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn hay mang cái khắc
khoải mơ hồ của người trước hư không. Mà là chòm mây cô đơn chậm chậm trôi giữa
bầu trời bao la. Chòm mây như có hồn người nó như mang cái tâm trạng lẻ loi đơn
độc và cái băn khoăn trăn trở chưa biết tương lai phía trước sẽ đi về đâu của
người tù nơi đất khách
Hai câu
đầu của bài Chiều tối còn gợi nhớ câu thơ của Lý Bạch trong bài “ độc toại kính
đình sơn” “một mình trên núi Kính Đình”
Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ
nhàn
(Bầy chim một
loạt bay cao
Lưng trời thơ thẩn
đám mây một mình)
Nếu cánh trong thơ Lý Bạch bay mất hút vào trong cõi vô tận thì
trong thơ Bác đó là cánh chim của đời sống hiện thực nó bay theo cái nhìn quen
thuộc và bình ổn của cuộc sống: sáng bay đi kiếm ăn tối bay về rừng tìm chốn
ngủ. áng mây của Lý Bạch bay nhàn tản gợi cảm giác thoát tục còn chòm mây trong
bức tranh thơ của Bác toát lên vẻ yên ả thanh bình của đời sống thời ngày
Cần nhớ rằng Bác viết những câu thơ này trong cảnh ngộ của người
tù bị giải đi từ lúc “ gà gáy một lần đêm
chửa tan” phải hứng chịu “rát mặt đêm
thu trận gió hàn” phải trải qua “ 53
cây số một ngày” đặt trong hoàn cảnh ấy chúng ta sẽ nhận ra
Dù
trong hoàn cảnh nào tân hồn của Bác cũng hướng về thiên nhiên, từng bức tranh
thiên nhiên ta tấy một cái nhìn trìu mến dõi theo từng biểu hiện của tạo vật
đằng sau cái nhìn ấy cháy bỏng và khắc khoải một ước mong sum họp một niềm khát
khao tự do mệt mỏi đau đớn và chán trường vậy mà cảm hứng thơ vẫn đếnvới bác
không có chân dung người khổ ải mà chỉ hiện ra cái dáng vẻ phong độ của bậc cao
nhân mặc khách đang ung dung thư thái thưởng ngoại cảnh chiều hôm nơi núi rừng
nếu không có ý chí, bản lãnh kiên cường và sự tự chủ tự do hoàn toàn ở tinh
thần của bác thì khó có được vần thơ cảm nhận thiên nhiêu sau sắc tinh thế như
thế trong hoàn cảnh tù đầy khốc liệt
Hai câu
thơ tả cảnh ngụ tình trên đó là cảnh ngộ và tâm trạng của người tù xa xứ như
tình cảm rất nhân bản .
Hai câu sau bức tranh sinh hoạt của người nơi xóm núi
thiên nhiên…. người
chiều…. vạn … tối
u ám…. ấm áp
cảnh sinh hoạt bên là người
Từ hai câu đầu đến hai câu sau mạch thơ có sự vận động chuyển
đổi từ khung cảnh thiên nhiên chuyển sang bức trah đời sống con người không
gian núi rừng hoang vu dường chỗ cho không gian xóm núi ấm áp đêm tối đã thay
cho chiều tàn trung tâm của bức tranh là người song không phải là nhưng người
nhỏ bé mờ nhạt thiếu vắng sự sống đang vận động và ta thường thấy trong thơ cổ
Lom khom
dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
(Qua Đèo Ngang - Bà huyện Thanh Quan)
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo ( Nguyễn Khuyến)
Còn trong thơ Bác hình ảnh cô gái xay ngô thoát lên vẻ trẻ
trung, khỏe mạnh đầy sức sống thiếu nữ miền sơn cước cũng không bị hòa lẫn vào
cảnh vật hay trở lên nhỏ bé yếu ớt. trái lại cô chính là điểm sáng của bức
tranh, là trung tâm của cảnh vật, công việc lao động của cô, ngọn lửa hồng từ
lò than và nhiệt huyết của tuổi trẻ đã là bừng sáng và sưởi ấm cả không gian
núi rừng. Chiều tối âm u heo hút khung cảnh ấy dễ đem lại cho người đi đường
nhất là người tù hơi ấm của sự sống niềm vui và niềm hạnh phúc bình dị thường
nhật.
Một lần nữa ta nhận ra cái nhìn trìu mến của Bác, cái nhìn ấy tự
nhiên như bao người khác, vừa thể hiện sự quan tâm và yêu thương của nững người
lao động. hai câu thơ có sắc điệu tươi vui cho thấy một người phấn khích thích
thú trước vẻ đẹp của đời sống. Thường đang dâng trào trong tâm hồn của nhà thơ,
dường như Người đã hoàn toàn quên đi cảnh ngộ của mình để cảm nhận cuộc sống để
đồng cảm sẻ chia với niềm vui niềm hạnh phúc bình dị của người lao động vất vả
nhưng tự do và tự chủ
Trong sự vận động của nhà thơ có sự cảm thong có sự chảy trôi
của dòng thời gian. Bản dịch đã them vào chữ “ tối”trong nguyên tác. Bác không nói tối mà người đọc vẫn cảm nhận
được trời tối và thời gian đang trôi dần từ chiều tà đến đêm khuya
Ba chữ ma bao túc ở
cuối câu ba được điệp vòng ở đầu câu bốn “….”đã tạo nên sự nối âm liên hoàn
nhịp nhàng như vừa diễn tả cái vòng tay không dứt động tác xay ngô vừa diễn tả
sự lưu chuyển thời gian từ chiều đế tối. Mặt khác, chính chữ hồng ở cuối bài thơ cũng khiến người đọc
hình dung. Với một chữ ‘hồng” Bác đa
làm sáng rực lên tất cả bài thơ, làm mất đi sự mệt mỏi, uể oải, sự vội vã nặng
nề diễn tả trong ba câu đầu đẫ làm sang rực lên khuôn mặt cô em khi xay xong
cối ngô. với chữ hồng đó ai có còn có cảm giác mệt mỏi nhọc nhằn nửa đâu mà chỉ
thấy màu đỏ nhuốm lên bóng đêm
Như vậy cũng giống như nhiều bài thơ khác của Bác hiện tượng thơ
trong chiều tối vận động thật khỏe khoắn bất ngờ và theo xu hướng phát triển:
từ ánh chiều âm u tăm tối, đến ánh lửa rực hồng ấm áp, từ mệt mỏi đến khỏe
khoắn, từ buồn đến vui. Sự vận động này cho thấy cái nhìn tràn đầy niềm
lien quan yêu đời thể hiện một tâm hồn luôn hướng về sự sống ánh sang và tuowg
lai của nhà thơ. chiến sĩ Hồ Chí Minh
III. Tổng
kết
Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh chiều nơi sơn cước mà trên hết và
toát lên từ toàn bộ thi phẩm là hình tượng nhân vật tâm tình có tấm lòng yêu
thương rộng lớn luôn luôn nâng niu trân trọng mọi sự sống trên đời. Người đã
quên đi cảnh ngộ của bản thân, sự đau khổ của thân xác, sự mệt mỏi của tinh
thần để yêu thương nâng niu một áng mây trôi, một chuyển động vất vả nhưng rất
đỗi bình dị tự do của người,
Nghệ thuật của bài thơ vừa có nét cổ điển (biện pháp chấm phá
điểm xuyết ước lệ với những thi liệu xưa cũng vừa có nét hiện đại ( biện
pháp tả thực sinh động với những hình ảnh dân dã đời thường, người là thương
tâm của bức tranh thiên nhiên ) . chỉ bằng một vài nét khác họa nhà thơ đã thu
được cái linh hồn của tạo vật, đồng thời kín đáo thể hiện cảnh ngộ và nỗi lòng
của bản thân