Thứ Tư, 25 tháng 3, 2015

BÀI THƠ CHIỀU TỐI

Mộ của Hồ Chí Minh
I.                     Tìm hiểu chung
Chiều tối là bài thơ thứ 31 trong tập thơ “Nhật kí trong tù”cảm hứng được gợi ra từ cuộc chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo
Chiều tối là tâm điểm kết thúc một ngày đi với “53 cây số một ngày – Áo mũ dầm mưa rách hết giày” đó là lúc mệt mỏi nhất. Vậy mà Bác vẫn có thơ, lại là thơ hay. Điều đó thể hiện bản lĩnh, tài năng của thi sĩ, chiến sĩ vĩ đại.
II. Phân tích
1. Hai câu đầu- khung cảnh thiên nhiên lúc trời tối
Bác không nói chiều mà người đọc vẫn nhận ra cảnh chiều bởi người đã vẽ lên một bức tranh cảnh vật với cánh chim chiều mỏi mệt đang bay về tổ và chòm mây lẻ loi đang lơ lửng giữa tầng không bằng những nét chấm phá, Bác đã gợi ra khung cảnh thiên nhiên mang đậm dấu ấn cổ điển phương đông. Hình ảnh chim bay về tổ, về núi thường mang ý nghĩa biểu tượng cho chiều tà:
        Chim bay về núi tối rồi
                                    (Ca dao)
      Chim hôm thoi thót về rừng
                                    (Nguyễn Du)
Trong thơ Bác cũng thế: “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ” – vừa là một nét phác họa không gian vừa gợi ra ý niệm thời gian
Mặc dù vậy, hình tượng cánh chim trong thơ Bác không chỉ được quan sát ở trạng thái vận động bên ngoài như trong thơ xưa “cánh chim bay” mà còn được cảm nhận rất sâu ở trạng thái bên trong “cánh chim mỏi mệt” có thể thấy một sự gần gũi tương đồng giữa cánh chim mỏi mệt sau ngày kiếm ăn. Với người tù đã thấm mệt sau một ngày vất vả lê bước đường trường. Ngoại cảnh cũng chính là tâm cảnh trong ý thơ cũng có sự hòa hợp giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật tự nhiên. Cội nguồn của sự cảm thông ấy là nguồn yêu thương mênh mông của Bác dành cho mọi sự sống trên đời.
Hình ảnh “chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” gợi nhớ câu thơ của Thôi Hiệu trong bài “Hoàng hạc Lâu”: “ ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay” và thơ Nguyễn Khuyễn: “Tầng mây lơ lửng” vẫn là một thi hiệu quen thuộc nhưng mây trong thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn hay mang cái khắc khoải mơ hồ của người trước hư không. Mà là chòm mây cô đơn chậm chậm trôi giữa bầu trời bao la. Chòm mây như có hồn người nó như mang cái tâm trạng lẻ loi đơn độc và cái băn khoăn trăn trở chưa biết tương lai phía trước sẽ đi về đâu của người tù nơi đất khách

Hai câu đầu của bài Chiều tối còn gợi nhớ câu thơ của Lý Bạch trong bài “ độc toại kính đình sơn” “một mình trên núi Kính Đình”
      Chúng điểu cao phi tận
      Cô vân độc khứ nhàn
      (Bầy chim một loạt bay cao
      Lưng trời thơ thẩn đám mây một mình)
Nếu cánh trong thơ Lý Bạch bay mất hút vào trong cõi vô tận thì trong thơ Bác đó là cánh chim của đời sống hiện thực nó bay theo cái nhìn quen thuộc và bình ổn của cuộc sống: sáng bay đi kiếm ăn tối bay về rừng tìm chốn ngủ. áng mây của Lý Bạch bay nhàn tản gợi cảm giác thoát tục còn chòm mây trong bức tranh thơ của Bác toát lên vẻ yên ả thanh bình của đời sống thời ngày
Cần nhớ rằng Bác viết những câu thơ này trong cảnh ngộ của người tù bị giải đi từ lúc “ gà gáy một lần đêm chửa tan” phải hứng chịu “rát mặt đêm thu trận gió hàn” phải trải qua “ 53 cây số một ngày” đặt trong hoàn cảnh ấy chúng ta sẽ nhận ra
Dù trong hoàn cảnh nào tân hồn của Bác cũng hướng về thiên nhiên, từng bức tranh thiên nhiên ta tấy một cái nhìn trìu mến dõi theo từng biểu hiện của tạo vật đằng sau cái nhìn ấy cháy bỏng và khắc khoải một ước mong sum họp một niềm khát khao tự do mệt mỏi đau đớn và chán trường vậy mà cảm hứng thơ vẫn đếnvới bác không có chân dung người khổ ải mà chỉ hiện ra cái dáng vẻ phong độ của bậc cao nhân mặc khách đang ung dung thư thái thưởng ngoại cảnh chiều hôm nơi núi rừng nếu không có ý chí, bản lãnh kiên cường và sự tự chủ tự do hoàn toàn ở tinh thần của bác thì khó có được vần thơ cảm nhận thiên nhiêu sau sắc tinh thế như thế trong hoàn cảnh tù đầy khốc liệt
Hai câu thơ tả cảnh ngụ tình trên đó là cảnh ngộ và tâm trạng của người tù xa xứ như tình cảm rất nhân bản .
Hai câu sau bức tranh sinh hoạt của người nơi xóm núi
thiên nhiên…. người
chiều…. vạn … tối
u ám…. ấm áp
cảnh sinh hoạt bên là người
Từ hai câu đầu đến hai câu sau mạch thơ có sự vận động chuyển đổi từ khung cảnh thiên nhiên chuyển sang bức trah đời sống con người không gian núi rừng hoang vu dường chỗ cho không gian xóm núi ấm áp đêm tối đã thay cho chiều tàn trung tâm của bức tranh là người song không phải là nhưng người nhỏ bé mờ nhạt thiếu vắng sự sống đang vận động và ta thường thấy trong thơ cổ
   Lom khom dưới núi tiều vài chú
  Lác đác bên sông chợ mấy nhà
                  (Qua Đèo Ngang - Bà huyện Thanh Quan)
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo ( Nguyễn Khuyến)
Còn trong thơ Bác hình ảnh cô gái xay ngô thoát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh đầy sức sống thiếu nữ miền sơn cước cũng không bị hòa lẫn vào cảnh vật hay trở lên nhỏ bé yếu ớt. trái lại cô chính là điểm sáng của bức tranh, là trung tâm của cảnh vật, công việc lao động của cô, ngọn lửa hồng từ lò than và nhiệt huyết của tuổi trẻ đã là bừng sáng và sưởi ấm cả không gian núi rừng. Chiều tối âm u heo hút khung cảnh ấy dễ đem lại cho người đi đường nhất là người tù hơi ấm của sự sống niềm vui và niềm hạnh phúc bình dị thường nhật.
Một lần nữa ta nhận ra cái nhìn trìu mến của Bác, cái nhìn ấy tự nhiên như bao người khác, vừa thể hiện sự quan tâm và yêu thương của nững người lao động. hai câu thơ có sắc điệu tươi vui cho thấy một người phấn khích thích thú trước vẻ đẹp của đời sống. Thường đang dâng trào trong tâm hồn của nhà thơ, dường như Người đã hoàn toàn quên đi cảnh ngộ của mình để cảm nhận cuộc sống để đồng cảm sẻ chia với niềm vui niềm hạnh phúc bình dị của người lao động vất vả nhưng tự do và tự chủ
Trong sự vận động của nhà thơ có sự cảm thong có sự chảy trôi của dòng thời gian. Bản dịch đã them vào chữ “ tối”trong nguyên tác. Bác không nói tối mà người đọc vẫn cảm nhận được trời tối và thời gian đang trôi dần từ chiều tà đến đêm khuya
Ba chữ ma bao túc ở cuối câu ba được điệp vòng ở đầu câu bốn “….”đã tạo nên sự nối âm liên hoàn nhịp nhàng như vừa diễn tả cái vòng tay không dứt động tác xay ngô vừa diễn tả sự lưu chuyển thời gian từ chiều đế tối. Mặt khác, chính chữ hồng ở cuối bài thơ cũng khiến người đọc hình dung. Với một chữ ‘hồng” Bác đa làm sáng rực lên tất cả bài thơ, làm mất đi sự mệt mỏi, uể oải, sự vội vã nặng nề diễn tả trong ba câu đầu đẫ làm sang rực lên khuôn mặt cô em khi xay xong cối ngô. với chữ hồng đó ai có còn có cảm giác mệt mỏi nhọc nhằn nửa đâu mà chỉ thấy màu đỏ nhuốm lên bóng đêm
Như vậy cũng giống như nhiều bài thơ khác của Bác hiện tượng thơ trong chiều tối vận động thật khỏe khoắn bất ngờ và theo xu hướng phát triển: từ ánh chiều âm u tăm tối, đến ánh lửa rực hồng ấm áp, từ mệt mỏi đến khỏe khoắn, từ buồn đến vui. Sự vận động này cho thấy cái nhìn tràn  đầy niềm lien quan yêu đời thể hiện một tâm hồn luôn hướng về sự sống ánh sang và tuowg lai của nhà thơ. chiến sĩ Hồ Chí Minh
III. Tổng kết
Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh chiều nơi sơn cước mà trên hết và toát lên từ toàn bộ thi phẩm là hình tượng nhân vật tâm tình có tấm lòng yêu thương rộng lớn luôn luôn nâng niu trân trọng mọi sự sống trên đời. Người đã quên đi cảnh ngộ của bản thân, sự đau khổ của thân xác, sự mệt mỏi của tinh thần để yêu thương nâng niu một áng mây trôi, một chuyển động vất vả nhưng rất đỗi bình dị tự do của người,
Nghệ thuật của bài thơ vừa có nét cổ điển (biện pháp chấm phá điểm xuyết  ước lệ với những thi liệu xưa cũng vừa có nét hiện đại ( biện pháp tả thực sinh động với những hình ảnh dân dã đời thường, người là thương tâm của bức tranh thiên nhiên ) . chỉ bằng một vài nét khác họa nhà thơ đã thu được cái linh hồn của tạo vật, đồng thời kín đáo thể hiện cảnh ngộ và nỗi lòng của bản thân


Thứ Bảy, 21 tháng 3, 2015

GIẤC MƠ VÀ SỰ THỨC TỈNH

Nghị luận về giấc mơ và sự thức tỉnh trong cuộc sống
Một trong những điều quan trọng nhất cầnđược hiểu về con người là con người đang ngủ. Ngay cả khi con người nghĩ mình thức, người đó cũng không thức. Việc thức của người đó là rất yếuớt; việc thức của người đó tí hon thế, nó chẳng thành vấn đề chút nào cả. Việc thức của người đó chỉ là cái tên hay nhưng hoàn toàn trống rỗng.

Bạn ngủ ban đêm, bạn ngủ ban ngày – từ sinh tới tử bạn cứ thay đổi hình mẫu ngủ của mình, nhưng bạn chưa bao giờ thực sự thức tỉnh cả. Chỉbởi việc mở mắt bạn không tự lừa mình được rằng bạn thức. Chừng nào con mắt bên trong còn chưa mở ra – chừng nào bên trong bạn còn chưa trở thànhđầy ánh sáng, chừng nào bạn còn chưa thấy bản thân mình, bạn là ai – đừng nghĩ rằng bạn thức. Đó là ảo tưởng lớn nhất mà con người đang sống trong. Và một khi bạn chấp nhận rằng bạn đã thức, thế thì không có vấn đề làm nỗ lực nào để thức tỉnh.
Điều đầu tiên chìm sâu trong trái tim bạn là ở chỗbạn ngủ, hoàn toàn ngủ. Bạn đang mơ, ngày nọ ngày kia. Bạn đang mơ đôi khi với mắt mở và đôi khi với mắt nhắm, nhưng bạn đang mơ – bạn là giấc mơ. Bạn còn chưa là thực tại.

Tất nhiên trong giấc mơ bất kì cái gì bạn làm cũng đều vô nghĩa. Bất kì cái gì bạn nghĩ cũng đều vu vơ, bất kì cái gì bạn phóng chiếu cũng vẫn còn là một phần của giấc mơcủa bạn và chưa bao giờcho phép bạn thấy cái đang đó. Do đó tất cả chưphật đã nhấn mạnh vào một một điều: Thức tỉnh! Liên tục, trong hàng thế kỉ, toàn thế giáo huấn của họ đều có thể được bao hàm trong một câu thôi: Thức tỉnh. Và họ đã phát minh ra các phương pháp, phương lược; họ đã sáng tạo ra các hoàn cảnh và không gian và trường năng lượng trong đó bạn có thể bị choáng để nhận biết.
Vâng, chừng nào mà bạn còn chưa bị choáng, bị rung chuyển tới chính nền tảng của mình, bạn sẽkhông thức tỉnh đâu. Giấc ngủ đã kéo dài tới mức nó đã đạt tới chính cốt lõi của bản thể bạn; bạn bị thấmđẫm trong nó. Từng tế bào của thân thể bạn và từng sợi thớ tâm trí bạn đã trở nên đầy giấc ngủ. Đó không phải là hiện tượng nhỏ đâu. Do đó nỗ lực lớn là cần để tỉnh táo, để mang tính chú ý, để mang tính quan sát, để trở thành nhân chứng.
Nếu tất cả chư phật của thế giới đều đồng ý trên một chủ đề nào, thì đó là – con người như người đó hiện thế, là đang ngủ, và con người như người đó phải thế, nên thức tỉnh. Thức tỉnh là mục đích và thức tỉnh là hương vị của tất cả các giáo huấn của họ. Zarathustra, Lão Tử, Jesus, Phật, Bahauddin, Kabir, Nanak – tất cảnhững người đã thức tỉnh đều đã từng dạy chỉ một chủ đề… trong các ngôn ngữ khác nhau, trong các biểu dụkhác nhau, nhưng bài ca của họ là hệt nhau. Cũng nhưbiển có vị mặn – dù bạn nếm biển từ phía bắc hay từphía đông hay từ phía tây, biển bao giờ cũng có vị mặn – vị của Phật tính là thức tỉnh.
Nhưng bạn sẽ không làm nỗ lực nào nếu bạn cứtin rằng bạn đã thức rồi. Thế thì chẳng có vấn đềlàm nỗ lực nào cả – sao bận tâm?
Và bạn đã tạo ra các tôn giáo, thượng đế, lời cầu nguyện, nghi lễ, từ giấc mơ của mình – thượng đếcủa bạn là một phần của giấc mơ của bạn cũng nhưbất kì cái gì khác. Chính trị của bạn là một phần của giấc mơ của bạn, tôn giáo của bạn là một phần của giấc mơ của bạn, thơ ca của bạn, tranh vẽ của bạn, nghệ thuật của bạn – bất kì cái gì bạn làm, bởi vì bạn ngủ, bạn làm theo trạng thái riêng của tâm trí mình.
Thượng đế của bạn không thể khác bạn được. Ai sẽ tạo ra họ? Ai sẽ cho họ hình thể và màu sắc và dáng vẻ? Bạn tạo ra họ, bạn khắc hoạ nên họ; họ có mắt nhưbạn, mũi như bạn – và tâm trí giống bạn! Thượng đếtrong Kinh Cựu ước nói, "Ta là Thượng đế rất ghen tị!" Bây giờ ai đã tạo ra Thượng đế này, người có tính ghen tị này? Thượng đế không thể ghen tị được, và nếu Thượng đế mà ghen tị, thế thì cái gì sai trong việc ghen tị? Nếu ngay cả Thượng đế mà cũng ghen tị, thì sao bạn lại bị coi là sai khi bạn ghen tị? Ghen tị là thiêng liêng!
Thượng đế trong Kinh Cựu ước nói, "Ta là Thượng đế rất giận dữ! Nếu ngươi không tuân theo mệnh lệnh của ta, ta sẽ diệt ngươi. Ngươi sẽ bị ném vào ngọn lửa địa ngục vĩnh viễn. Và bởi vì ta rất ghen tị, nên chớ tôn thờ ai khác. Ta không tha cho điều đóđâu." Ai đã tạo ra Thượng đế như vậy? Điều đó phải là từ ghen tị của riêng bạn, từ giận dữ của riêng bạn, mà bạn đã tạo ra hình ảnh này. Nó là phóng chiếu của bạn, nó là cái bóng của bạn. Nó vọng lại bạn chứkhông ai khác. Và cùng điều đó cũng là trường hợp cho mọi thượng đế của mọi tôn giáo.
Chính bởi vì điều này mà Phật chưa bao giờ nói về Thượng đế cả. Ông ấy nói, "Phỏng có ích gì mà nói về Thượng đế cho những người đang ngủ? Họsẽ nghe trong giấc ngủ của mình. Họ sẽ mơ về bất kì cái gì được nói cho họ, và họ sẽ tạo ra thượng đếriêng của họ – điều sẽ hoàn toàn giả tạo, hoàn toàn bất lực, hoàn toàn vô nghĩa. Tốt hơn cả là không có những thượng đế như thế."
Đó là lí do tại sao Phật lại không quan tâm tới việc nói về thượng đế. Toàn thể mối quan tâm của ông ấy là ở việc đánh thức bạn.


TRÀNG GIANG


Phan tich net tru tinh trong bai tho Trang Giang cua Huy Can
 – Đề bài. Em hãy viết bài văn phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận. Bài làm của Nguyễn Thị Phương Thảo lớp 11c2 khối chuyên văn trường THPT chuyên Nguyễn Tất Thành.

Trong thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thiên nhiên rất đẹp, rất quyến rũ hồn người nhưng nó thường bị vây phủ bởi một nỗi buồn. Nhà thơ hay đặt mình con người hữu hạn vào thời gian vô hạn và không gian vô biên để suy ngẫm về sự sống của vũ trụ, từ những cái thường ngày nhỏ nhặt mà đề cập tới những vấn đề to lớn của trời đất, trăng sao… Nhưng cảm quan đó dù có ít nhiều màu sắc triết lý cũng không thoát khỏi nỗi buồn man mác. Đất nước, thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang cũng thấm sâu một nỗi buồn như thế. Bài thơ thể hiện tâm trạng của “cái tôi trữ tình” cô đơn, thấm đượm nỗi sầu nhân thế trước thiên nhiên mênh mông, hiu quạnh và tấm lòng yêu nước thầm kín của thi sĩ.

Lời đề từ tuy nằm ngoài bài thơ, nhưng lại đúc kết nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Có thể coi hình tượng và cảm xúc trong câu thơ này là nguồn thi hứng để thi sĩ sáng tác nên bài thơ Tràng giang bất hủ. Nó khiến cho không chỉ “cái tôi trữ tình” nặng trĩu nhớ nhung, mà đất trời sông núi cũng tràn ngập bâng khuâng, nhung nhớ. Cái độc đáo của câu thơ này chính là sự giao thoa của cả hai nghĩa ấy. Huy Cận đã triển khai cảm hứng nêu ở câu thơ để từ một cách hoàn hảo trong suốt bài thơ Tràng giang.

Ở khổ thơ thứ nhất, hai câu đầu đặc tả cảnh sông nước quen thuộc trải rộng ra trong một không gian mênh mông, bát ngát:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Nếu câu trên, sự vô biên được mở ra với hình ảnh những lớp sóng tiếp nối nhau, xô đuổi nhau điệp điệp thì ở câu dưới nó lại được đặc tả qua hình ảnh con thuyên xuôi mái theo những luồng nước song song rong ruổi về mãi cuối trời.

Sóng gợn nhấp nhô trên mặt sông bao la thì buồn cũng dồn đuổi nhau điệp điệp hết lớp này tới lớp khác trong hồn người, vần ang trong tràng giang có dư âm vang xa, tạo nên âm hưởng chung cho bài thơ. Mặt khác, tràng giang còn gợi lên được hình ảnh một con sông không những dài mà còn rộng. Cái nhỏ nhoi của con thuyền càng làm nổi bật cái rộng dài tưởng chừng vô tận của dòng sông. Sức mạnh của hai câu thơ trên không chỉ là ở nghệ thuật miêu tả, mà còn ở nghệ thuật khơi gợi cả xúc cảm và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên theo không gian (tràng giang) và theo thời gian (điệp điệp).

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả; 

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Thuyền về bến, neo lại nghỉ ngơi, mặt sông vắng bóng thuyền, nước đành chia sầu trăm ngả. Củi một cành khô lạc mấy dòng không biết trôi về nơi nao. Hình ảnh đơn sơ mà có sức gợi sự liên tưởng sâu xa tới thân phận cô đơn, lênh đênh, sầu thảm của kiếp người thời ấy.



Đến khổ thơ thứ hai, bức tranh tràng giang có thêm cảnh, thêm người nhưng nỗi buồn không vơi mà như càng thấm sâu vào cảnh vật:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Khung cảnh chứa đầy tâm trạng. Huy Cận đã tập trung tất cả hình ảnh, nhạc điệu để làm nổi bật lên nỗi buồn thấm thía của con người trước sông dài trời rộng. Nỗi buồn được gợi lên từ mặt nước mênh mông, đôi bờ hoang vắng, từ một cồn nhỏ lơ thơ heo hút, dăm bụi cây phơ phất trong gió lạnh đìu hiu.

Lắng nghe đâu đây, từ làng xa vẳng lại tiếng chợ chiều đang vãn, tuy có hơi hướng con người nhưng âm thanh mơ hồ như từ cõi nào vọng lại, làm dấy lên trong lòng lữ khách nỗi khát khao được gặp gỡ và chia sẻ tâm tình.

Nỗi buồn toả ra hết chiều cao, chiều rộng của bến bãi, mặt nước, bầu trời. Ở đây, người đọc bắt gặp cảm nhận tinh tế, kì diệu của nhà thơ qua một chi tiết hết sức bất ngờ: sự chuyển đổi cảm giác trời lên cao thành sâu chót vót đặc tả độ cao rợn ngợp của bầu trời và khoảng cách vô tận giữa trời và nước. Từ đó tạo nên ấn tượng sông thêm dài, trời thêm rộng và bến sông vốn đã vắng vẻ lại càng cô liêu hơn, quạnh quẽ hơn.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Vẫn trong mạch cảm xúc, nỗi buồn được gợi ra từ hai khổ thơ đầu qua các hình ảnh: những cánh bèo trôi dạt lênh đênh, những con thuyền, dòng nước như cùng trôi về cõi vô biên, củi một cành khô lưu lạc bồng bềnh trên sóng nước thì đến khổ thơ này ấn tượng về khung cảnh mênh mông vắng lặng, về sự chia li tan tác được láy lại và nhấn mạnh bằng hai lần phủ định: Không một chuyến đò, Không cầu gợi chút niềm thân mật. Người cô đơn gặp cảnh hoang vắng tĩnh mịch đến lạnh lùng như thế thì nỗi cô đơn càng đậm, càng sâu. Ước mong khao khát tìm được một chút hơi hướng ấm áp của con người nhưng chỉ thấy toàn bờ xanh tiếp bãi vàng hun hút tới tận chân trời và chỉ có những cánh bèo không biết sẽ trôi dạt về đâu giữa tràng giang bát ngát. Toàn là hình ảnh gợi nỗi buồn thương, tan tác, chia li.

Sông dài, trời rộng không có bóng dáng con người. Không một chuyến đò và cũng không cầu để tạo nên cảm giác gần gũi giữa con người với nhau mà chỉ toàn là thiên nhiên (bờ xanh) với thiên nhiên (bãi vàng) xa vắng, mênh mang. Vì thế, nỗi buồn ở bài thơ này không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn thời cuộc.

Bốn câu cuối thể hiện rất rõ tâm trạng tác giả và ý tưởng chung của toàn bài. Nỗi buồn sâu thẳm từ con người đã thấm sang cảnh vật:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp nhưng vẫn mang dáng vẻ cô đơn. Mây cao đùn lớp lớp thành ngọn núi bạc chơ vơ trong hoàng hôn, giống như nỗi buồn chất ngất trong lòng người lữ thứ. Giữa trời đất bao la chỉ còn lại một cánh chim nhỏ chở nặng bóng chiều sa. Tất cả đều cô đơn, lẻ loi đến tội  nghiệp và con người dường như chìm ngập trong vũ trụ rộng lớn, bao la. Giữa cảnh Tràng giang ấy, nỗi buồn của kẻ tha hương lại càng da diết, khắc khoải:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Câu thơ gợi nhớ tới một tứ thơ Đường: Yên ba giang thượng sử nhân sầu (Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu). Tản Đà dịch: Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Tuy nhiên, hai câu thơ của Huy Cận có nét mới hơn. Người khách trong thơ Thôi Hiệu nhìn thấy khói toả, sóng gợn mà nhớ tới quê hương; còn nhân vật trữ tình trong Tràng giang đứng trước cảnh sông không khói hoàng hôn mà vẫn rưng rưng nỗi nhớ về một miền quê xa khuất.

Âm điệu thơ trầm buồn có sức lay động tận nơi sâu thẳm của tâm hồn người đọc. Huy Cận đã tiếp thu thế mạnh của thể thơ bảy chữ, kết hợp với từ ngữ hàm súc, tinh tế để thể hiện sự chân thành, thiết tha của một tấm lòng nhớ nhung, hoài vọng quê hương. Bao phủ toàn bài thơ là một nỗi buồn lan rộng và thấm thía. Đó là nỗi buồn của kiếp người nhỏ bé, hữu hạn trước cái vô biên, vô tận của vũ trụ vĩnh hằng. Tuy nhiên, đó là nỗi buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn của bạn đọc.

Tràng giang đã kết hợp được những nét cổ điển của thơ Đường, vẻ đẹp của truyền thống thơ ca dân tộc cùng dáng dấp hiện đại của Thơ mới. Tấm lòng nhà thơ đã dàn trải ra thành những hình ảnh, âm điệu, màu sắc vừa đơn sơ giản dị, vừa đẹp đẽ thanh cao. Bài thơ phản ánh tâm trạng của một trái tim cô đơn, một “cái tôi trữ tình” đau đáu nỗi buồn trước cuộc đời. Nỗi buồn sâu xa ấy đã hòa vào nỗi bơ vơ, cô độc trước khung cảnh thiên nhiên hoang vắng. Tuy vậy nhưng tình cảm của nhà thơ Huy Cận đối với non sông đất nước thể hiện qua bài thơ cũng thật thiết tha, sâu lắng. Đúng như nhận xét của nhà thơ Xuân Diệu: “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn dường cho lòng yêu giang sơn, Tổ quốc”.

Theo: Thái Bảo


TRÀNG GIANG

Tìm hiểu tác phẩm Tràng Giang của Huy Cận
Đặt vấn đề:
Nhà thơ Huy Cận đã từng viết về mình:
            Chàng Huy Cận xưa kia hay sầu lắm
            Nỗi nhớ thương chẳng biết đã ta chưa
            Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa
            Cùng đất nước mà nặng buồn sông núi
Nỗi sầu trong bài thơ của Huy Cận là nỗi sầu sông núi, sầu vũ trụ và thi sĩ gọi đó là nỗi sầu vạn kỉ. Tiêu biểu cho nỗi sầu ấy là bài thơ Tràng Giang rút trong tập thơ đầu tay – tập thơ “Lửa thiêng” (1940) của Huy Cận
Cảm hứng thơ trong Tràng Giang là cảm hứng không gian, cụ thể là cảnh sông nước. Điều này thể hiện trong nhan đề :”Tràng Giang” nghĩa là sông dài. Hai từ hán việt ghép lại gợi những dòng trường giang ở Trung Quốc xa xôi từng là nguồn cảm hứng cho biết bao văn nhân thi sĩ xứ ngoài. Nhan đề gợi sắc thái cổ kính cho thi phẩm. Mặt khác lấy âm vang cho thấy dòng sông ấy không chỉ mở về chiều dài mà còn cả chiều rộng, nó vừa là trường giang vừa lại đại trường giang
Thân Bài
1.   Lời đề từ
Lời đề từ được trích từ câu thơ chính của Huy Cận trong một bài thơ khác
            Lâng lâng chiều nhẹ ghé muôn tai
            Trong bóng chiều như mờ tiếng ai
            Thổi lạc hương rừng cơn gió đến
            Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Lời đề từ đã gói gọn chủ đạo của tâm hồn thi sĩ. Theo lời Huy Cận kể lại, cảm hứngcâu thơ được gợi ra từ những buổi chiều của nhà thơ đứng ở bờ Nam bến chèm nhìn cảnh sông Hồng mênh mông sông nước, nghĩ về những kiếp người nổi trôi nhỏ bé. Từ dòng sông Hồng cụ thể nghĩ về Tràng Giang mênh mông, từ nỗi buồn riêng mà nghĩ về cả kiếp người. Đó là nguồn cảm hứng chi phối tâm hồn nghệ sĩ ở trong bài thơ này.
2.   khổ 1
Ngay những câu thơ đầu nhiều người đọc bắt gặp những hình ảnh quen thuộc nơi sông nước
            Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Có lẽ khi viết những câu thơ này, Huy Cận đã tiếp thu nghệ thuật diễn tả trong câu ca dao
            Sóng bao nhiêu gợn da nhiều sầu bấy nhiêu
Ca dao dùng phép so sánh “bao nhiêu – bấy nhiêu” còn trong thơ của Huy Cận ta nhận thấy mối liên hệ ngầm của các từ ngữ: có bao nhiêu gợn sóng trên dòng Tràng Giang là có bấy nhiêu nỗi buồn của nghệ sĩ. Điều đáng nói là sắc thái của nỗi buồn ấy: buồn điệp điệp. Đó là nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng tha thiết dai dẳng
            Trên dòng sông Tràng Giang là hình ảnh quen thuộc: “con thuyền xuôi mái nước song song” trong văn học truyền thống, con thuyền vốn là hình ảnh để chỉ lênh đênh trôi dạt
            Thân em như chiếc bách giữa dòng
            Bóng buồm đã khuất bầu không
            Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời (L Bạch)
Con thuyền trên dòng Tràng Giang thụ động, phó mặc trôi theo dòng nước (xuôi mái) mà vẫn hờ hững với dòng nước ( nước song song). Thuyền – nước là những sinh vật vốn không thể tách rời thậm chí một nhà thơ đã viết
            Những ngày không gặp nhau
            Biển bạc đầu thương nhớ
            Những ngày không gặp nhau
            Lòng thuyền đau rạn vỡ
                                                – Xuân Quỳnh-
Cái tôi thơ mới của Huy Cận đã nhận ra cái vô tình ẩn chứa bên trong các sinh vật vốn hữu tình
            Câu thơ gợi ra những con sóng lan tỏa theo chiều rộng; câu hai gợi những luồn nước rong ruổi mãi về cuối trời. Hai câu thơ thấp thoáng bóng dáng ý thơ Đỗ Phủ tả cảnh sông nước.
            Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
            Bất tận trường giang cổn cổn lại
            (Ngàn cây bát ngát lá rung xào xạc
            Dòng sông dằng dặc nước cuồn cuộn trôi)
Cùng dùng phép đối nhưng nếu Đỗ Phủ sử dụng đối thì Huy Cận dùng đối xứng. Cùng dùng những từ láy nguyên để gợi tả, trong khi tác giả “Đăng Cao” đặt ở giữa câu thì tác giả “Tràng Giang” lại đẩy xuống cuối câu. Vì thế mà thơ Huy Cận tạo âm hưởng không dứt. Đến câu thơ ba
Củi một cành khô lạc mấy dòng
“củi” là mẩu rơi vãi, khô gãy của thân cây. Từ một cành cây xanh tươi nơi núi rừng đầu nguồn đến cành củi khô lạc loài, thân phận của cỏ cây đã làm mấy lần tang thương mây nắng đã mấy lần trôi dạt đổi thay. Kiếp củi hay chính là kiếp người trong xã hội đầy bế tắc. Nhà thơ đặc tả cảnh cành củi với những từ ngữ gây ấn tượng.
Một  (đơn độc), cành (nhỏ nhoi), khô (khô héo), lạc (trôi dạt vô hướng). Cảm nhận cành củi, hỹ ngước lên dòng Tràng Giang ở câu một. Ta bỗng nhận ra tương phản gay gắt giữa cái mênh mông của đời và sự nhỏ ngoi của kiếp người. Sự tương phản còn xoáy vào trong câu thơ thứ tư: “giữa mấy dòng”cành củi càng thêm nhỏ bé. Nhỏ bé tội nghiệp nổi lênh đênh mà đầy kiêu hãnh – “ cái tôi lạc loài bơ vơ của thơ mới đã tìm thấy sự đồng điệu vớ hình ảnh caanfh củi khô lạc loài trong câu thơ của Huy Cận” ( Xuân Diệu)
3. Khổ 2
Từ mặt nước Tràng Giang nhà thơ hướng về bến bờ trái đất và lắng mình trong tiếng thơ chiều như có như không:
            Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
“ cồn” vốn đã vắng,  “ cồn nhỏ” càng vắng hơn. Hai tính từ (lơ thơ, đìu hiu) bao bọc ở hai câu đầu khiến câu thơ không chỉ gời không gian thưa thớt mà còn vắng vẻ, mà còn lạnh lẽo đến dợn người. Huy Cận từng tâm sự, ông học được từ “đìu hiu” trong chính phụ ngâm
            Non kì quạnh quẽ trăng treo
            Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
            Mặt chinh phụ trăng dõi dõi theo
Xuân Diệu cũng từng có một từ “đùi hiu”thật đắt
            Rặng liễu đùi hiu đứng chịu tang
Từ “đâu” trong câu thơ thứ hai của Huy Cận đã dẫn tới những cách hiểu khác nhau có lẽ hợp lý hơn : âm thanh thưa thớt, yếu ớt của chợ chiều đã vãn từ chợ xa vọng lại càng tăng thêm cảm giác của Tràng Giang là nơi chốn bị bỏ quên. Trái đất này này thủ pháp lấy động tả tĩnh của văn học thời đại đã phát huy hiệu quả của nó trong câu thơ. Nhiều người đã khen hai câu thơ sau là tuyệt bút:
            Nắng xuống trời lên sâu chót vót
            Sông dài trời rộng bên bến cô liêu
Không gian trời đất đầy những “ xuống”, “lên”, “dài”, “rộng”. Đó là thứ không gian ba chiều , khác hẳn với không gian hai chiều trong thơ cổ. Cụm từ “nắng xuống trời lên” gợi cảm giác đàn hồi: nắng xuống đến đâu trời lên đến đó và nó hoàn tất bởi “sâu chót vót”. “chót vót” vỗn là một tính từ tả độ cao (núi cao chót vót chon von – Xuân Diệu). Vào thơ Huy Cận từ này thêm khả năng diễn tả chiều sâu. “Sâu chót vót” – độ sâu theo cái nhìn ngước lên. Câu thơ gợi ra trước mắt người đọc hình ảnh : nắng lên đỉnh trời độ xoáy xuống tạo thành một cái vực vũ trụ. Theo chiều không gian, nỗi buồn không chỉ tỏa rộng mà còn khoét sâu đến rợn người có lần chính Huy Cận đã phải thốt lên.
            Không gian ơi! Xin hẹp bớt mênh mông
Khổ thơ khép lại bằng những hình ảnh đưuọc liệt kê: sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
4. Khổ 3
Nếu khổ moojt gây ấn tượng về sự vô định của kiếp người sự vô hạn của vũ trụ thì khổ ba là sự đứt nối của giao cảm, dồn người và sự cô đơn bế tắc
            Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Nhà thơ mượn lại hình ảnh bèo truyền thống nhưng cách diễn đạt gợi tầng lớp, dợn ngợp hơn. Có cái gì đó thật ngơ ngác trong hai câu “về đâu”
            Mênh mông một không một chuyến đò ngang
            Không cầu gợi chút niềm thân mật
            Lặng lẽ bờ xanh bãi vàng
Sự “mênh mông”phủ lên khắp không gian. Trong cái mênh mông ấy là sự thiếu vắng những phương tiện để người đến với người, người đến với đời. Những điều khao khát của nhà thơ thật nhỏ nhoi, thậm chí là tối thiểu “đò ngang”, “cầu gợi chút niềm thân mật”. Câu cuối gợi ra hình ảnh hai bờ sông song song chạy dài tít tận chân trời. Tràng Giang hiện ra như một thế giới hoang đến giờ vẫn thế. Đó không phải là cái thanh vắng mà ta thường thấy trong văn học hiện đại:
            Lom khom dưới núi tiều vài chú
            Lác đác bên sông chợ mấy nhà
                        (bà Huyện thanh Quan)
            Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
                        (Nguyễn Khuyến)
5. khổ 4
Mây trắng hết lớp này đến lớp khác đùn lên như những trái núi khô, ánh trời chiều như rắc bạc trên đỉnh núi. Chữ “đùn” gợi nhắc câu thơ Đỗ Phủ
            Lưng trời sóng dựng lòng sâu thẳm
            Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Trong buổi chiều ấy, thiên nhiên càng phô vẻ kì vĩ của mình
            Chim ngheeng cách nhỏ bóng chiều sa
Hình ảnh những con chim chiều vốn quen thuộc trong thơ ca
            Chim bay về nui tối rồi
                        (ca dao)
            Ngàn mai gió cuốn chim bay mới
                        (bà huyện Thanh Quan)
Những cánh chim ấy mang thông điệp thời gian. Cánh chim trong câu thơ của Huy Cận là biểu tượng của sự sống, hiện thân của cái tôi thơ mới. Cánh chim nghiêng nghiêng bay về tổ ấm bị bủa vây bốn bề bởi “mây cao đùn núi bạc”. Bóng chiều bỗng chở lên có hình có khổi, được cảm nhận ra đôi cánh nhỏ bé. Có cảm giác cánh chim không thể nào thoát khỏi bóng chiều đang bao phủ từ tứ phía. Mặt khác: “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Ta bỗng nhận ra sự sống thì thật nhỏ nhoi nhưng nỗi cô đơn của sự sống thì thật khổng lồ
            Lòng quê dượn dợn vời con nước
Xét về mặt từ ngữ, “dợn dợn” là gợi “ vời vợi” là xa “ con nước” là con sóng. Cho nên câu thơ “ Lòng quê…..”mang dáng dấp câu thơ mở đầu
            Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Nhưng ở đây, nhịp sóng đã khác xa. Nó khởi phát từ nỗi lòng của kẻ nhơ quê. Lòng quê gợi lên từ mây trắng, từ cánh chim chiều nhưng mãnh liệt hơn cả là khí phóng tầm mắt nhìn ra con nước. Chữ “vời”gợi nhắc đến câu Kiều :
                        Bốn phương mây trắng một màu
            Trông vời cố quốc biết đâu là nhà
Bài thơ kết thúc bằng câu
            Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Câu thơ in đậm bóng dáng của ý thơ Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc Lâu
            Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yêu ba giang thượng sử nhân sầu
( Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
Xưa, Thôi Hiệu nhìn khói sóng trên sông mờ mịt mà nhớ nhà cách xa. Nay Huy Cận đứng giữa khung cảnh vô tình lòng thèm khát quê hương như nỗi niềm ấm áp. Xưa, Thôi Hiệu tìm giấc mơ tiên nhưng người tiên đã cưỡi hạc vàng bay về trời, lòng thi sĩ khát khao về hiện tại, nay Huy cận giữa tràng giang mênh mông, giữa một xã hội thị dân với những mối quan hệ truyền thống bắt đầu rạn nứt, thi sĩ hướng về quê nhà như cõi niềm ấm áp. Nếu tác giả “Hoàng hạc lâu”khao khát thực tại thì tác giả “Tràng Giang” khao khát tình người.
·                    Giá trị
-         Tràng giang như hầu hết các sáng tác của Huy Cận trước cách mạng mang cảm hứng không gian khá rõ nét
-         Ẩn chứa bên rong bức tranh thiên nhiên đẹp là nỗi u hoài của một cái tôi thơ mới bơ vơ thèm khát tình người.
-         “Tràng Giang là lời ca non sông đất nước, dọn đường cho tình yêu tổ quốc sau này” (Xuân Diệu)


“NGHỆ THUẬT SỐNG LÀ PHẢI THAY ĐỔI ĐỂ THÍCH NGHI VỚI MÔI TRƯỜNG"

Đề bài: Một nhà văn Nhật Bản đã từng nói: “Nghệ thuật sống là phải thay đổi để thích nghi với môi trường”. Em có suy nghĩ gì về vấn đề trên?
Cuộc đời mỗi con người là một dòng chảy xiết không bao giờ chịu đứng yên, tạo ra bao nhiêu dâu bể, chuyển biến, đổi khác đến nỗi chỉ cần trong một khoảnh khắc thôi cũng đủ làm người ta phải giật mình khi “Từ tôi phút ấy sang tôi phút này” (Xuân Diệu). Do đó, việc “ứng xử” với những cải biến của cuộc sống cũng là một “nghệ thuật” mà mỗi chúng ta cần học hỏi. Đóng góp một ý kiến về vấn đề này, có nhà văn Nhật đã nhận xét sắc sảo: “Nghệ thuật sống là phải thay đổi Đế Thích nghi với môi trường”.
Lời bàn của nhà văn Nhật kia đã chỉ ra một bài học thật thiết thực và đúng đắn. Đã có danh nhân từng quả quyết rằng: “Không lỗi lầm nào mà tự nhiên trừng phạt nặng hơn là việc chóng lại sự thay đổi”! Ấy chẳng phải là khẳng định “sự thay đổi Đế Thích nghi với môi trường” là một lẽ tất yếu, một quy luật không thể phủ nhận hay né tránh của bất cứ sinh thể nào trong vũ trụ sao? Những loài chim di cư biết nương mình theo chiều gió để tiết kiệm sức lực bay; những cây xương rồng tự biến lá mình thành gai nhọn để chống chọi với sa mạc khắc nghiệt… Trong tự nhiên, không thay đổi thì khó có thể tồn tại lâu dài. Con người cũng vậy! càng “linh hoạt trong môi trường linh hoạt” như tâm niệm nổi tiếng của nhân vật thuyền trưởng Nemo (Hai vạn dặm dưới biển, Juyn Vecnơ) mới có thể coi đại dương mênh mông và đầy bí ẩn kia như ngôi nhà bình yên và thân thiết. “Thay đổi Đế Thích nghi với môi trường” đích thực là một “nghệ thuật”. Đã là “nghệ thuật” cũng có nghĩa là đòi hỏi ở con người một kĩ năng, một phương thức, một sự dụng công không thể chỉ tính bằng ngày, tháng, mà còn rèn luyện, tích lũy qua một thời gian lâu dài. 
Bạn là một cô gái bướng bỉnh và nóng nảy, bạn bộc trực và thẳng thắn đến nỗi nhiều khi làm mất lòng bè bạn. Nếu như còn ở trên ghế nhà trường, cá tính ấy có lẽ sẽ được những người bạn thông cảm, chấp nhận. Song một khi rời mái trường bình yên, phải lăn lộn vất vả mới kiếm được việc làm ổn định, bạn sẽ không thể cứ mãi giữ tính cách “thẳng như ruột ngựa” ấy với cấp trên và đồng nghiệp, vẫn biết ngay thẳng và cương trực là phẩm chất “vàng mười” trong thời đại ngày nay, song đó phải là sự ngay thẳng, cương trực sau khi đã suy xét thấu đáo, chứ không phải nóng nảy, bộp chộp không cần biết lắng nghe quan điểm người khác. “Thay đổi” không phải là bạn mất đi những nét tính cách đặc biệt và đáng quý ở mình. Trái lại, “thay đổi” có “nghệ thuật” chính là phải mài giũa cá tính ấy sao cho nó có thể phát huy trong sự đồng tình, kính mến của mọi người xung quanh.

Nghệ thuật sống là phải thay đổi để thích nghi với môi trường
“Thay đổi Đế Thích nghi với môi trường”, phải chăng chỉ để làm cho cá nhân ta tồn tại lâu dài? Không chỉ có vậy, nhiều khi “thay đổi” còn có thể ảnh hưởng đến biết bao người khác, có thể quyết định vện mệnh của một xã hội, một đất nước nữa. Khi xưa, “trung quân” là cách hành xử được tư tưởng Nho giáo hết mực đề cao, nhưng “trung quân” với nhà Thương đến mức cương quyết không chịu sống trên đất nhà Chu, không ăn cả rau mọc trên đất nhà Chu để rồi chết đói như Bá Di, Thức Tề thì thực là cố chấp và uổng phí thay! Giá như hai ông hiểu rằng, “ái quốc” là dốc lòng đem trí lực ra giúp dân, giúp nước, là biết đợi thời phục quốc thì đáng quý biết bao! Suy cho cùng, cổ nhân cũng đã từng răn dạy thật chí lí về hai chữ “thức thời”, tức là thích nghi với môi trường, biết sống phù hợp với hoàn cảnh thì mới có thể làm nên nghiệp lớn. Nhà văn Nhật Bản khi nói rằng: “Nghệ thuật sống là phải thay đôi Đế Thích nghi với môi trường”, phải chăng cũng đang nghĩ đến Thiên hoàng Minh Trị, vị minh quân lỗi lạc của dân tộc mình? Nước Nhật trở thành một siêu cường ắt không thể quên những thành tựu vượt bậc của Thiên hoàng Minh Trị ngày trước, người đã biết tách khỏi sự cằn cỗi, thâm căn cố để của tư tưởng phong kiến để bắt kịp với văn minh tiến bộ phương Tây. Người Nhật được bạn bè năm châu nể phục cùng là bởi lẽ ấy…
Sự thay đổi có thể nói là điều hệ trọng đối với mỗi một cá nhân và cả với mỗi dân tộc. Thay đổi là thiết yêu và cũng là tất yếu. Song  “thay đổi” một cách “nghệ thuật” hoàn toàn không phải thay đôi tuỳ tiện, bừa bãi. Không có gì ngu ngốc bằng cố chấp, bảo thủ, nhưng cùng không có gì nguy hiểm bằng tự phá bỏ bản sắc của mình. “Thay đổi” tức là vẫn cần có cái nền, cái gốc mà từ đó nảy sinh ra sự biến hoá, linh hoạt. Còn lối phá bỏ bản thân như là “đẽo chân cho vừa giày” thì sao có thể xem như “nghệ thuật sống”? Ai đã từng đọc Một người Hà Nội cùa nhà văn Nguyễn Khải chắc không thể quên nhân vật bà Hiền, một hiện thân của kiểu người thức thời, không lạc thải mà cũng tuyệt đối không “xu thời”' luôn chọn một cách sống “là mình” ở bắt có hoàn cảnh nào, thời đại nào. Thế mới đúng là một nghệ thuật sống, đòi hỏi một bản lình hơn người!
Vâng, bản lĩnh, theo tôi đó là yêu cầu lớn nhất để tạo nên sự thay đổi lớn lao! Phải có bản lĩnh mới có thế có dùng khí gạt bỏ những cũ kĩ, sai lạc cùa mình để hoà đồng với đời sống; bản lĩnh để vẫn bám trụ với bản ngã vôn có, giữ gìn được những vẻ đẹp riêng trước cái xấu băng hoại. Cố Tổng thống Mĩ Kennedy đã từng nói: “Sự tiến bộ là một từ ngữ đẹp, song động cơ của sự tiến bộ là thay đổi, mà sự thay đổi nào cũng có kẻ thù của nó”. Vậy đấy, bản lĩnh còn là dám đối mặt với những “kẻ thù” của mình: đó là sự trì trệ, lạc hậu, bảo thủ… Ai dám nói “linh hoạt trong môi trường linh hoạt”, “thức thời”, dám “thay đổi” là những kẻ cơ hội và hèn nhát?
Sống đẹp trong đời sống là một nghệ thuật, và vì thế, bạn hãy cố gắng biến mình trở thành nghệ nhân! Tuổi trẻ là khoảng thời gian dễ dàng uốn nắn bản thân mình nhất, vậy thì còn gì thuận lợi cho bằng. Là thanh niên, chúng ta hãy cùng tự tạo nên “tác phẩm nghệ thuật cuộc sống” cho riêng mình?
Bích Ngọc 
SN 83 – ngõ 322 Hai Bà Trưng – Q. Lê Chân – Hải Phong