TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO BIỂU HIỆN TRONG THƠ HAI-CƯ
VÀ THƠ THIỀN LÝ
– TRẦN
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Tín ngưỡng tôn giáo là một phạm trù
triết học thuộc về tâm linh của con người. Mỗi tôn giáo đều có những đặc trưng
riêng, nhưng chung qui lại tất cả các tôn giáo này đều có mục đích chung: nhằm
khuyên dạy cho con người biết cách sống tốt, biết hướng đến cái chân – thiện – mỹ, sống hoà thuận, yêu
thương, giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau
thực hiện phương châm “tốt đời,
đẹp đạo”.
Tư tưởng Phật Giáo đã thấm nhuần trong tâm hồn
dân tộc Việt Nam
thành một khối keo sơn khó phai mờ và lay chuyển. Đạo Phật đã gắn liền với dòng
Văn học và cùng với sinh mệnh thăng trầm của dân tộc đã gần hai mươi thế kỷ. Ở
đây, chúng tôi chỉ xin đề cập tới ảnh hưởng Phật Giáo trong thơ Hai- kư
và thơ thiền Lý–Trần.
2. Mục đích nghiên cứu
Người viết nghiên cứu đề tài để chỉ ra
ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo trong thơ Hai-cư và thơ thiền Lí - Trần.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài
này là: tư tưởng Phật giáo, thơ Haicư, thơ thiền Lí - Trần .
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chủ yếu nghiên cứu ở các
phương diện: tư tưởng Phật giáo biểu hiện trong thơ Hai cư và thơ thiền Lí -
Trần, điểm tương đồng và dị biệt giữa chúng.
5. Phương pháp nghiên
cứu:
Với đề tài này, người viết sử dụng các
phương pháp: phân tích, tổng hợp, so sánh, thực chứng …
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Vài vấn đề về tư tưởng phật giáo, quan niệm về
bản thể trong tư tưởng Phật giáo Thiền Tông
1.1. Vài vấn
đề tư tưởng Phật giáo
* Quan điểm của triết học phật
giáo về thế giới quan
Quan
điểm triết học Phật giáo về 3 phạm trù: vô ngã, vô thường và duyên khởi.
Phạm
trù vô ngã:
Vô ngã là không thừa nhận các tôi chân thật
cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người là không phải do vị thần nào
sáng tạo ra mà do sự cấu thành kết hợp giữa hai yếu tố sắc và danh (sắc là vật
chất, danh là tinh thần).
Sắc gồm: đất, nước, lửa, không khí…
Danh gồm thụ, tưởng, hành, thức. Trong đó,
thụ là cảm giác tưởng là ấn tượng; hành là ý muốn thúc đẩy hành động; thức là
nhận thức. Chính cái danh và cái sắc đó kết hợp lại với nhau hình thành ngũ uẩn.
Ngũ uẩn tác động qua lại tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự tồn tại của sự
vật là tạm thời nhưng không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi, do đó
cũng không có cái tôi chân thật.
Phạm
trù vô thường:
Là sự biến hóa không ngừng với mọi sự vật
hiện tượng nằm trong quá trình biến đổi theo chu trình: sinh, trụ, dị, diệt… Do
đó, không có cái gì trường tồn bất định chỉ có sự vận động biến đổi không ngừng.
Đức
Phật dạy: “tất cả những gì trong thế gian
là biến đổi, hư hoại, điều là vô thường”. Vì vậy, vô thường có nghĩa là
không ở yên trong một trạng thái nhất định, luôn thay đổi hình dạng đi từ trạng
thái hình thành đến biến dị rồi tan rã.
Vô thường của đạo Phật là một phương pháp
chỉ rõ mặt trái của đời, bày trừ mê lầm, ngăn chặn những người chạy theo vật
dục nó chưa phải là thuyết tuyệt đối.
Vô thường là một định luật chi phối tất cả
sự vật từ thâm tâm đến hoàn cảnh. Hiểu lý vô thường người ta dễ giữ được bình
tĩnh thản nhiên trước thay đổi bất ngờ.
Phạm trù duyên khởi:
Phật giáo cho rằng mọi sự vật hiện tượng
trong vũ trụ đều chịu sự chi phối của luật nhân - duyên. Trong đó, duyên là đều
kiện giúp nhân thành kết quả. Quả ấy lại có duyên mới thành nhân khác. Nhân
khác lại nhờ duyên thành quả mới, cứ như vậy tạo nên một sự biến đổi không
ngừng của các sự vật.
Quan điểm của triết học
phật giáo về nhân quả:
Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả. Nếu có
nguyên nhân tác động, tất nhiên có kết quả hình thành. Do đó, người ta thường
nói trồng cây gì, được cây đó.
Theo quan niệm Phật giáo, nhân gieo thì quả
trổ, nhân lành thì quả tốt, nhân ác quả xấu, đó là định luật tự nhiên; luật
nhân quả tác động một cách máy móc: khi nghiệp quá nặng con người đã có, muốn
cũng không sửa đổi kết quả được. Nghiệp lành chỉ làm diệu bớt phần nào của quả
dữ. Định luật nhân quả thật là phức tạp.
Theo tư tưởng triết
học:
Nhân nào quả ấy: người làm lành gặp lành,
làm ác gặp ác là lẽ tất nhiên.
Trong nhân có quả trong quả có nhân: nhân
quả là một chuỗi dài, quả hôm nay là do nhân đã gieo từ trước và quả hôm nay
cũng vừa là nhân của quả vị lai.
Sự phát triển nhanh
hay chậm từ nhân đến quả:
Nhân quả đồng thời: nhân phát khởi quả liền
theo (đánh chuông nghe tiếng).
Nhân quả trong hiện tại: chúng ta tạo nhân
trong đời này thì kết quả cũng trong đời này: như ở hiền thì gặp việc lành, ở
ác thì gặp việc dữ.
Nhân quả nhiều đời: nhân ở đời trước, đời
này đủ thuận duyên có kết quả, nhân trong đời này chưa đủ thuận duyên chưa có
kết quả, sẽ có kết quả ở kiếp sau.
Nhìn chung qua các phạm trù: vô ngã, vô
thường, duyên khởi… triết học Phật giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm cho rằng
thần thánh sáng tạo ra con người, thế giới. Phật giáo cho rằng thế giới, con
người được kết thành từ những yếu tố vật chất, nằm trong quá trình liên hệ vận
động biến đổi theo qui luật khách quan. Đó là cách giải thích đúng nhất đáng
trân trọng, chống lại cách giải thích duy tâm về thế giới.
* Quan điểm của triết
học Phật giáo về nhân sinh quan
Quan điểm của triết
học Phật giáo về tứ diệu đế:
Nội dung triết lý nhân sinh quan của Phật
giáo thể hiện tập trung trong thuyết tứ diệu đế mà đòi hỏi mọi người cần phải
nhận thức được.
Tứ diệu đế: chữ Hán dịch từ chữ Phạn Catvary
aryasatyani. Arya là diệu: cao quý, mầu nhiệm; là sự thật chân lý. Tứ diệu đế
còn được gọi là tứ chân đế, tứ thánh đế, bốn chân lý mầu nhiệm.
- Khổ
đế (dukkha): là thực trạng đau khổ của con người.
- Tập
đế (sammudaya): nguồn gốc, nguyên nhân dẫn đến thực trạng đau khổ.
- Diệt
đế (nirodha): sự kết thúc hay chấm dứt khổ đau.
- Đạo
đế (magga): con đường, phương pháp thực hành để chấm dứt khổ đau.
Một là, khổ đế (dukkha): khổ đế là một chân
lý cho rằng cuộc đời con người là bể khổ. Đức Phật nói: “nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước đại dương”.
- Về phương diện sinh lý: là một cảm giác
khó chịu, đau đớn của thể xác. Lão tử nói: “ngô
hữu đại hoạn do ngô hữu than” (có thân nên có khổ).
- Về
phương diện tâm lý: những mất mát, thua thiệt trong cuộc đời ; muốn tiền tài
danh vọng địa vị những ước mơ không toại ý…
- Khổ là chấp thủ ngũ uẩn (upadana -
skandhas): cái khổ thứ ba này bao hàm hai cái khổ trên; như trong kinh đã dạy “chấp thủ năm uẩn là khổ”.
Đức Phật dạy: “này các tùy theo, sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ,
thương yêu mà biệt ly là khổ, mong cầu mà không được là khổ. Tóm lại, chấp thủ
năm uẩn là khổ”. Phật giáo cho rằng đời là bể khổ. Trong đó, ít nhất có 8
cái khổ (bát khổ). Đó là: sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt (yêu thương nhau phải
xa nhau), oán tăng hội (ghét nhau mà phải gần nhau ), sở cầu bất đắc mong muốn
mà không được), ngũ thụ uẩn (do năm yếu tố tạo nên con người). Vì vậy, con
người ở đâu, làm gì cũng khổ.
Hai là, tập đế (samudaya): triết lý về
nguyên nhân của sự khổ. Phật giáo đưa ra 12 nguyên nhân tạo ra cái khổ vòng
luẩn quẩn nỗi khổ đau nhân loại, gọi là thuyết “thập nhị nhân duyên”:
- Vô
minh: là không sáng suốt, là nguồn gốc gây nên mọi tội lỗi.
-
Hành: là hành động, là ý muốn thúc đẩy hành động.
-
Tức: tâm từ trong sáng trở nên u tối.
-
Danh sắc: sự hồi tụ các yếu tố vật chất, tinh thần sinh ra các cơ quan cảm giác
- Lục
nhập: quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác quan
-
Xúc: là sự tiếp xúc với thế giới xung quanh sinh ra cảm giác
-
Thụ: là cảm thụ, sự nhận thức trước sự tác động của thế giới bên ngoài.
- Ái:
Là sự yêu thích từ ham muốn dục vọng do cảm thụ thế giới bên ngoài.
- Thủ: do yêu thích rồi muốn chiếm lấy, giữ
lấy.
- Hữu: là sự tồn tại để tận hưởng cái đã
chiếm đoạt được.
- Sanh : sanh mạng. Là sự ra đời sinh thành
do sự tồn tại.
- Lão tử: là già và chết do có sự sinh
thành.
Tóm
lại, chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình;
nếu không bị chấp ngã và dục vọng vị kỷ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự
trị trong tâm thì cuộc đời này đầy an lạc, hạnh phúc.
Ba là, diệt đế (nirodha): diệt đế là sự chấm
dứt hay dập tắt phiền não, nguyên nhân đưa đến đau khổ và sự chấm dứt khổ đau
cũng có nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt đế: đồng nghĩa với Niết bàn.
Bốn là, đạo đế (magga): đạo là con
đường, phương pháp thực hiện để đạt được an lạc, hạnh phúc. Đạo đế gồm có 37
pháp, thường gọi là 37 phẩm trợ đạo. Trong 37 pháp thì tam thánh đạo được coi
là tiêu biểu và căn bản nhất của đạo đế tam thánh đạo còn được gọi là bát chánh
đạo – con đường chân chính – có 8 chi phần:
- Chánh kiến (samma ditthi): thấy hiểu
đúng về đạo đức, thiện ác. Nhận thức rõ bản chất, nguyên nhân khổ, sự diệt khổ,
con đường dẫn đến khổ.
- Chánh tư duy (samma sankappa): suy nghĩ
đúng đắn, dẫn tư duy của mình hướng về tâm cao thượng như sự giải thoát, thương
yêu nhẫn nhục trầm tĩnh.
- Chánh ngữ (samma vaca): ngôn ngữ đúng
đắn xây dựng niềm tin đoàn kết thương yêu, lợi ích. Không nói những lời đưa đến
đau khổ, chia rẽ căm thù.
- Chánh
nghiệp (samma kammanta): hành vi đúng đắn, không có hành vi giết hại trộm
cướp… yêu thương cứu giúp không ham muốn thú vui bất thiện.
- Chánh
mạng (samma ajiva): đời sống đúng đắn, nghĩa là phương tiện mưu sinh, nghề
nghiệp chân chính, không sống bằng nghề phi pháp, độc ác gian xảo.
- Chánh
tinh tấn (samma vayama) : nỗ lực đúng đắn, nghĩa là nỗ lực đoạn trừ đều ác,
nỗ lực thực hành đều thiện.
- Chánh
niệm (samma sati): nhớ nghĩ đúng đắn, đừng để các đối tượng bất chính dẫn
mình đi lang thang. An trú tâm ý vào thiện pháp, không quên thiện pháp.
- Chánh
định (sama samathi): tập trung tư tưởng đúng đắn, đừng để tâm bị rối loạn
an tịnh tâm thức một cách đúng đắn, có hiệu quả phát triển trí tuệ.
Mối quan hệ giữa các chi phần bát chánh đạo
là không thể phân ly. Xác định bát chánh đạo là con đường đưa đến giải thoát
gồm ba bước: giới, định, tuệ.
- Giới: là chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng.
- Định: là chánh tinh
tấn, chánh niệm, chánh định.
- Tuệ: là chánh kiến,
chánh tư duy.
Con đường tu tập của đạo đế là con đường nỗ
lực tự thân của mỗi hành gia Phật tử. Con đường ấy vừa thực tiễn vừa có hiệu
quả ngay tại đời sống này. Con đường có thể diệt trừ được vô minh, đạt đến sự
giải thoát nhập vào Niết bàn.
Quan điểm triết học
Phật giáo về ngũ giới:
Ngũ giới là năm điều đức Phật đã sáng tạo
ra để ngăn cản những tưởng niệm ác, nói năng chẳng lành, hành động bất chính.
Năm đều răn ấy là:
Bất sát: không sát sanh
Bất đạo: không trộm cướp
Bất dâm: không tà dâm
Bất vọng ngữ: không nói dối, thô tục bậy bạ. Có
bốn thứ vọng:
- Vọng ngôn: là không nói thật, trước mắt
khen ngợi sau lưng chê bai.
- Ỷ ngữ: nói lời đường mật làm dao động,
nhục chí người khác, bàn luận những lời dâm dục, biên soạn tiểu thuyết tình tứ
đồi trụy khiến người loạn tâm.
- Lưỡng thiệt : là ở giữa hai người dung lời
nói xúc xiểm để chia rẽ, hoặc bàn tán đúng sai, tạo ra sự xung đột cho người,
khiến tình bạn tốt trở thành oán thù.
- Ác khẩu: dùng lời thô lỗ ác độc, khiến
người nghe đau khổ sợ hãi.
Bất ẩm tửu: không uống rượu.
Tư tưởng triết học về
ngũ giới: năm giới
không chỉ là phép tắc giữ gìn căn bản của Phật tử mà cũng là đạo lý căn bản của
bất kì ai. Thành người được thì thành Phật được. Chúng ta muốn thành Phật thì
tất nhiên phải bắt đầu từ năm giới cơ bản.
Tóm lại, Phật giáo là một trào lưu triết học
lớn của Ấn Độ cổ, trung đại. Ở giai đoạn đầu học thuyết triết học ấy chứa đựng
những yếu tố duy vật, tư tưởng biện chứng của thế giới. Phật giáo đã nói lên
được tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, phê phán sự bất công đòi
tự do bình đẳng xã hội đồng thời nó nêu lên khát vọng giải thoát con người khỏi
những bi kịch của cuộc đời, khuyên con người sống lương thiện đạo đức cá nhân.
Tuy nhiên, trong triết học nhân sinh của Phật giáo vẫn mang nặng tính chất bi
quan không tưởng và duy tâm về mặt xã hội.
1.2. Bản
thể:
“ Bản thể” là “ căn bản tự thể của các pháp” mà “
Pháp là từ chỉ chung hết thảy mọi sự vật, hiện tượng , dù là to nhỏ, hữu hình,
vô hình, chân thực, hư vọng. Sự vật
cũng là vật, đạo lý cũng là vật, tất thảy đều là pháp cả”. Nhà nghiên cứu
Phật học O.O.Rozenberg trong công trình “Phật
giáo- Những vấn đề triết học” đã khẳng định “ Pháp hay Dharma như là cơ sở của giáo lý Phật giáo”. Giữa bản thể
và vạn pháp ( hiện tượng) có mối quan hệ biện chứng. Khi bàn về tư tưởng Thiền
học của Tăng Triệu ( Trung Quốc), để lí giải và nhấn mạnh quan niệm về bản thể,
Cao Xuân Huy viết “ Bản thể là bản thể
của vũ trụ, vạn pháp là các hiện tượng trong thế giới khách quan”. Theo
kinh Hoa Nghiêm, một bộ kinh được dùng làm yếu chỉ của tông phái Hoa Nghiêm thì
“ Thế giới bản thể gọi là lý pháp giới;
thế giới hiện tượng gọi là sự pháp giới”. Đây chính là tinh thần “ Nhất đa tương dung, lý sự vô ngại, tương
nhập tương tức” ( Một và nhiều dung
hợp nhau, nguyên lý và vạn vật cũng như vạn sự, vạn vật không có gì làm trở ngại nhau, cái này
thể nhập vào cái kia , cái kia cũng tức là cái này”. Theo tinh thần ấy, bản
thể được ví với nước và hiện tượng được
ví với sóng. Tuy nước và sóng tồn tại hai dạng thức khác nhau, được biểu hiện
bằng hai khái niệm khác nhau nhưng thực chất vẫn là một vì sóng là hiện tượng của nước và nước là thực tướng của sóng. Quan niệm đồng nhất trong sai biệt này của kinh
Hoa Nghiêm đã được Thiền học Trung Quốc, Việt Nam kế thừa và tiếp thu.
Như
vậy, cái chính bản thân sự vật vốn có là cái bản chất tối sơ, nguyên thủy, khởi
nguồn của các pháp, mà pháp thì bao gồm toàn bộ thế giới sự vật, hiện tượng và
con người; toàn bộ thế giới thực tướng và giả tướng, hữu hình và vô hình. Bản
thể ấy là bản thể chân như và các dạng thức tồn tại biểu hiện ra muôn màu vẻ
của các pháp.
Văn học Phật giáo Lý Trần đã phản ánh khá
đầy đủ giáo lý Phật giáo như vừa nêu. Cụ thể là các thiền sư Lý Trần đã khởi
điểm sắc – không, trên quan niệm trung đạo luận để nhận thức thực tướng và giả tướng rồi đi đến triết lý vạn
vật nhất thể , đạt đến chân như, niết
bàn. Trước hết, họ xem thế giới hiện thực khách quan mà con người đang sống
là giả tướng. Cái mà con người thấy đó là thực,
hiện hữu chẳng qua là do vọng kiến
sinh ra. Chúng hiện hữu đó nhưng không có thực như bản thể tự tại. Vạn sự, vạn vật kể cả con người đều là vô thường. Tất cả từ không, do thập nhị nhân duyên hợp lại mà thành.
2. Sự thể hiện tư tưởng Phật giáo trong thơ Haicư
2.1 Cảm thức về
bản chất thế giới
Cảm thức là ý thức trong sự cảm nhận.
Nói cách khác, cảm thức là sự cảm nhận một cách có ý thức. Sự cảm nhận này
không đơn thuần bằng cảm giác mà còn có sự soi rọi của lí trí.
Cảm thức còn là sự cảm nhận tinh tế nhạy
bén, sắc sảo, đầy phát hiện trước một cảnh sắc, trước một vẻ đẹp nào đó trong
vũ trụ hay trong cuộc sống của con người. Thơ Haiku thể hiện cái nhìn bản thể
về vạn vật tronmg thiên nhiên.
- Cảm
thức về thời gian: thời gian bốn mùa
trên đất nước Nhật Bản đã trở thành đề tài chủ yếu trong thơ Haiku cổ điển. Bốn
mùa xuân- hạ -thu- đông trong sự vận hành chu chuyển của đất trời.
Cảm
thức về thời gian nằm trong sự phát hiện vẻ đẹp từng mùa.. Thơ Haiku dùng từ
mùa để thể hiện thiên nhiên và đời sống. Các mùa xuân-hạ- thu- đông vừa vô tận
lại vừ phiếm chỉ. Đặc điểm của mùa là thời gian, là quy luật muôn đời của tạo
hóa:
“Ta bà một
nỗi đau
cho dù mùa
xuân đó
đang nở những
hoa đào”.
(Issa)
Bài thơ là bài ca não
lòng, dù mùa xuân đầy hoa đào nhưng lòng người vẫn buồn vô tận, buồn vì nỗi đau
con người, nỗi đau trần thế.
Mùa xuân đi qua, mùa hạ
lại về, trong thơ Haiku tiếng ve cũng báo hiệu cho mùa hạ:
“Ôi tiếng ve
kêu
thấu xuyên
vào đá
trong cõi
quạnh hiu.”
(Basho)
Nhà thơ lấy cái động để
nói lên cái tĩnh lặng của không gian. Tiếng ve kêu như xuyên vào đá, cô độc và
vắng lặng.
Thơ Haiku nắm bắt sự tồn tại trong một khoảnh
khắc thời gian:
“Trên cành
khô
Con quạ đậu
Chiều thu”
(Basho)
Xuân qua, hạ đến, thu
sang là quy luật của tạo hóa, đời người thì hữu hạn, do vậy cái tồn tại thực
thể của con người là ở giây phút thực tại, khoảnh khắc thực tại, khoảnh khắc
của một buổi chiều thu.
Ta cũng bắt gặp sự tĩnh
lặng đến độ nghe được âm thanh của những chiếc lá mùa đông
“Những chiếc
lá rơi
Dường như trăm tuổi
Giữa ngôi
vườn chùa”.
(Basho)
Bài thơ lắng đọng một cái
nhìn, một suy tư về sự sinh sinh- diệt diệt trong quá trình tuần hoàn của tự
nhiên cũng như trong kiếp luân hồi của đời người.
Thơ Haiku trống chứ không
đầy, im lặng hơn là nói. Thơ Haiku chỉ ra sự vật của thiên nhiên rồi dừng lại
chứ không giải thích không miêu tả cặn kẽ, để ngỏ cho người đọc tìm hiểu và suy
ngẫm:
“A! hoa
asagaô
Dây gàu vương
hoa bên giếng
Đành xin nước
nhà bên”
(Chiyô)
Chỉ nói như thế nhưng gợi
người đọc suy nghĩ, khám phá mối giao cảm của con người và thiên nhiên trong
trạng thái cô tịch.
Nhà thơ muốn nâng niu gìn
giữ đóa hoa asagaô vì nó mang tên “ gương
mặt buổi sớm” hay nhà thơ không muốn khuấy động những giây phút huyền diệu
của buổi sớm mai
- Cảm thức về không gian
Theo quan niệm Thiền tông
Nhật Bản, thế giới không chỉ bao gồm những vật đơn lẻ mà còn là tất cả các sự
vật trong thiên nhiên, vũ trụ, chúng luôn chuyển động, chuyển hóa và bổ sung
cho nhau để đi đến sự hòa hợp, tương thích.
Triết lí ấy sâu sắc nhưng
được thể hiện bằng những hình tượng giản dị nhẹ nhàng. Đó là cảm thức về không
gian trong thơ Basho.
“Tịch mịch
thẫm sâu
tiếng ve”
Giữa cái tĩnh lặng, tịch
mịch ấy lòng người đã hòa vào cảnh sắc thiên nhiên để lắng nghe tiếng vang của
loài vật. Nhà thơ mượn âm thanh của tiếng ve để thể hiện niềm cô tịch, vô ngã
của thiên nhiên. Đá trở nên vô ngại dung chứa tiếng ve cho thấy vạn vật giao
hòa. Bút pháp lấy động tả tĩnh là nét đặc trưng trong thơ Haiku:
“Từ bốn phương
trời
hoa anh đào
rụng xuống
gợn sóng hồ
Bi-oa”
(Basho)
Một cảnh tượng đẹp, giản
dị nhưng đầy màu sắc thể hiện sự giao hòa của vạn vật trong thiên nhiên, vũ
trụ.
Cảm thức về con người
Con người trong thơ Haiku là những con người
nhỏ bé, những chúng sinh đau khổ. Nhà thơ có cái nhìn từ bi đối với những thân
phận thấp cổ bé miệng trong xã hội:
“Tiếng vượn
hú não nề
hay tiếng trẻ
bị bỏ rơi than khóc
gió mùa thu
tái tê”
( Basho)
Nhà thơ đã làm cho bức
tranh mùa thu vốn dĩ đã buồn nay còn thê lương hơn, khi giữa cái buổi chiều
mênh mông lặng lẽ lại cất lên âm thanh của tiếng vượn hay tiếng khóc của trẻ
con kiệt sức vì bị bỏ rơi.
Nhà thơ đã ý thức sâu sắc
về thân phận con người, chia ngọn bút tình thương đến mọi kiếp người. Đó là
những em bé:
“Xem kìa bé
ơi
hãy chạy
nhanh đến
mưa đá đang
rơi”
(Basho)
Những người nông dân bình
thường đầu bạc tiễn đầu xanh:
“Chống gậy đưa
chân
những gia
đình bạc tóc
đi viếng mộ
người thân”
(Basho)
Hay cảnh đáng thương của
cô gái giang hồ:
“Chung một
mái trọ
những du nữ
ngủ
trăng và hoa
thu”
(Basho)
Con người trong thơ Haiku
luôn được nhìn với đôi mắt nhân từ với tấm lòng từ bi vô hạn.
2.2 Cảm thức về vô thường
Cảm thức vô thường xuất
hiện từ quan niệm Phật giáo sinh- trụ -dị -diệt, đó là quy luật tuần hoàn của
tạo hóa, vạn vật luôn có sự thay đổi, vận động. Phật giáo quan niệm không gì
tồn tại mãi mãi. Điều này rất gần với câu nói của Hêralit “ Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Trong thơ Haiku cũng có cảm thức về sự vô thường:
“Trăng rụng
rồi
bốn góc bàn
quen thuộc
còn lại mà
thôi”
(Basho)
Ở đây, sự mất mát đối với
thi nhân quá lớn nhưng tác giả không nói đến từ “chết” mà dùng những sự vật quen thuộc hằng ngày diễn tả sự ra đi
của bạn. Trăng rụng là nói đến cái chết ấy. Nhưng bốn góc bàn, nơi người ấy
thường ngồi vẫn còn lại như tất cả những cái khác vẫn tồn tại trên cõi đời này.
Đây không phải nói đến cái bi kịch của con người mà là sự cảm nhận của thi sĩ
về sự sống và cái chết cũng đơn giản, bình dị như bốn góc bàn ấy. Trong Thiền
tông, con người luôn xem cái chết nhẹ tợ lông hồng. Bởi chết chưa phải là kết
thúc mà là bắt đầu một duyên mới. Giống như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn quan niệm
trần gian chỉ là quán trọ của con người.
“Tôi nay ở
trọ trần gian
Trăm năm về
chốn xa xăm cuối trời”
Hay “ cát bụi lại trở về với các bụi”. Vạn vật
luôn có sự vận hành thay đổi và hãy biết chấp nhận nó một cách nhẹ nhàng.
“ Kêu chi
nhạn ơi
đi đâu cũng
thế
cõi phù thế
thôi”
( Issa)
Một tiếng kêu thảng thốt
của con chim nhạn đang đi tìm chỗ trú giữa mùa đông thâm u gợi lên cảm thức phù
du của trần thế và một niềm thương cảm ở người thi sĩ.
“Nửa đêm thăm
thẳm
dòng sông
Ngân hà
rời đổi chỗ
nằm”
(Ranretsu)
Nửa đêm thức dậy nhìn
trời, thi sĩ thấy dòng sông Ngân hà không còn ở chỗ cũ mà dời đổi sang chỗ
khác. Đó là sự vận động các vì tinh tú trong vũ trụ. Trong đêm thanh vắng con
người và sự vật đều chìm vào khoảng không gian bao la vô định của vũ trụ.
“Nằm bệnh
giữa cuộc lãng du
mộng hồn còn
phiêu bạt
những cánh
đồng hoang vu”
Đây là bài thơ của Bashô
viết trước khi mất, ông đã lâm trọng bệnh trên đường đi thăm phương Nam, và sau đó
ông qua đời đúng như dự đoán của ông ngày trước “ tôi sẽ chết trên đường, đó là định mệnh của tôi”. Bài thơ tạ thế
nhưng không mang cảm giác bi quan bởi chính Bashô ông cũng là một Thiền sư,
phải chăng hơn ai hết ông hiểu được sự vô thường của tạo hóa. Chính vì thế bài
thơ không mang màu sắc tang thương
2.3 Cảm thức về vẻ đẹp thiên nhiên
Thiên nhiên trong thơ
Haiku thường là những cảnh vật bình dị, những vật nhỏ bé, tầm thường, dễ bị
lãng quên : một cánh quạ, một con ếch, một tiếng chim quyên, một con khỉ nhỏ
bé, một tiếng ve, một bông hoa dại,…và Haiku cố gắng đi tìm cái đẹp trong cái
bình thường ấy. Thơ Haiku thấm đẫm tinh thần thiền tông và tinh thần văn hóa
phương Ðông nói chung. Trong cách nhìn thế giới, Haiku thường thể hiện con
người và vạn vật nằm trong mối quan hệ chặt chẽ, đó là cái nhìn nhất thể hóa.
Những hiện tượng của tự nhiên như âm thanh, màu sắc, mùi hương,…đều có sự tương
giao và chuyển hóa lẫn nhau, trong một quy luật lớn lao và bí ẩn của tự nhiên.
Âm thanh có thể thâm nhập được vào vật thể: Ví dụ trong một không gian vắng
lặng, tiếng ve kêu như thấm sâu vào đá:
“ Vắng lặng u
trầm
Thấm sâu vào
đá
Tiếng ve ngân”
Một cánh hoa đào mỏng
manh tưởng như chẳng có liên quan tác động gì đến hồ nước, thế mà BaSho tìm
thấy sự tương quan của nó: cánh hoa có thể làm hồ nổi sóng:
“Từ bốn
phương trời xa
Cánh hoa đào
lả tả
Gợn sóng hồ Biwa”.
Basho thể hiện chất thiền
trong hầu hết các sáng tác và khám phá vẻ đẹp u hoài, dịu vợi của thiên nhiên
theo chiều thức cảm xúc mang đậm màu thiền:
“Năm dặm mỗi
ngày
ta đi tìm em
đây
hoa đào yêu
dấu ơi”
Hay:
“Rừng trúc
mênh mông
tiếng chim cu
hót
trong ánh
trăng nghiêng”
Bài thơ là bức tranh vắng
lặng với không gian mênh mông, cảnh sắc ấy không hề có bóng dáng con người mà
chỉ có tiếng chim vọng lại.
Thiên nhiên trong thơ
Haikư lồng chứa vạn vật trong cái lồng chứa hữu hình ấy lại luôn là sự vận
động, chuyển biến nhịp nhàng về thời gian của bốn mùa. Thiên nhiên và con người
hòa quyện vào nhau:
“Mùa thu ở
Kiô
người tiễn
đưa ta
ta tiễn đưa
người”
Hay:
“Cây chuối
trong gió thu
Tiếng mưa rơi
tí tách vào chậu
Ta nghe tiếng
đêm”
( Basho)
Xây dựng hình ảnh cây
chuối, tác giả không đi vào khám phá chất hùng theo cách hiểu “có cứng mới đứng đầu gió” mà ông đã khai
thác chất bi của hình ảnh cây chuối để bài tỏ sự cảm thông của tấm lòng bác ái
khi thấy cây chuối mềm yếu phải run rẩy trước luồng gió thu lạnh buốt. Hình ảnh
cây chuối vì thế thể hiện tình cảm nhân đạo của nhà thơ trước vạn vật.
Ðể khám phá vẻ đẹp của
thiên nhiên, Haiku thường đề cao cái vắng lặng (sabi), đơn sơ (wabi), u huyền
(ỳugen), mềm mại (shiori), nhẹ nhàng (karumi). Ðó là những cảm thức thẩm mỹ rất
riêng, rất cao và rất tinh tế của thơ Haiku.
3. Sự thể hiện tư tưởng Phật giáo trong thơ thiền Lý Trần.
3.1 Phân biệt thơ thiền ý và thơ thiền lý.
Xét về mặt chức năng, thơ
thiền Lý Trần bao gồm hai loại: loại là thơ đích thực và loại vốn là những bài
kệ trình bày triết lý uyên áo của Phật giáo những tính chất giảng truyền đặc
biệt của thiền cũng như tính khoáng đạt của giáo lý thiền tông và của nhà thơ
thiền, đã trở thành những bài thơ về thiên nhiên và cuọc sống đầy hình ảnh màu
sắc âm thanh.
Loại thứ nhất được gọi là thơ thiền lý: trực
tiếp thuyết giảng về yếu chỉ thiền tông. Một số bài thơ thiền lý tiêu biểu :
Thị đệ tử ( Vạn Hạnh), Tâm pháp ( Cứu Chỉ), Thị tịch ( Ngộ Ấn), Cáo tật thị
chúng ( Mãn Giác thiền sư),…
Loại thứ hai được gọi là thơ thiền ý: đây là loại thơ gián tiếp thuyết giảng
về yếu chỉ thiền tông, mỗi bài thơ lấy một ý trong thơ thiền lý, được nghệ
thuật hóa bằng hình tượng gắn bó với cuộc sống. Một số bài thơ thiền ý tiêu biểu:
Tham đồ hiển quyết ( Viên Chiếu), Ngữ lục vấn đáp môn hạ ( Trần Thái Tông), …
3.2. Tư tưởng phật giáo trong thơ thiền Lý – Trần
3.2.1. Cảm thức về bản thể
“ Bản lai diện mục”, “diện mục”, “bản lai thân’ đều là các loại ẩn
dụ (từ vựng) có nghĩa là: mặt mũi nguyên xưa chỉ cái tính nguyên thủy của vạn
vật, cái tâm bản thể chứa đựng trong mỗi sự vật, tức là “ bản thể”. (trong thơ thiền , các ẩn dụ nói nhiều về cái bản thể là
nhà quê hương , tiếng vượn kêu nơi sâu thẳm mặt người mẹ …) . Triết lý thiền
tông quan niệm vạn vật, con người vốn cùng một bản thể , tức “ chân như” . Từ cái “một” này biến hóa ra thành muôn vàn hiện tượng. Cần nhìn thấu hiện
tượng để thấy bản thể , đừng lầm lạc chấp vào cái hiện hữu cụ thể.
Vd: “ Thủy
trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ
toàn chân”
(Trúc biếc
hoa vàng không phải là cảnh bên ngoài
Mây trắng ,
trăng vàng lộ rõ cái “ chân” toàn
vẹn)
(Nhật nguyệt II –
Thiền Lão)
Vd: “Hà san cảnh thi bồ đề đạo”
( Khắp những
thế giới nhiều như cát sông Hằng , chỗ nào cũng là Phật).
(Đáp từ
đạo hạnh chân tâm chi vấn – Kiều Tứ Huyền)
Vd: “ Chân thân thành vạn tượng
Vạn tượng tức chân thân
Nguyệt điện minh đan
quế
Đan quế tại nhất luân”
( Chân thân
biến hóa thành muôn vàn hiện tượng
Muôn vàn hiên
tượng cũng là chân thân
Như cung
trăng làm cho cây quế đỏ tươi tốt
Nhưng cây quế
vẫn ở giữa cung trăng)
( Hóa vận – Nguyễn Y
Sơn)
Vd: “ Xuân lai, xuân khứ, nghi xuân tận
Hoa lạc, hoa khai, chỉ
thị xuân”
( xuân lại
xuân đi nghĩ rằng xuân đã hết
Hoa rụng hoa
nở vẫn chỉ là mùa xuân ấy)
( Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn –
Chân Không)
Vd: “ Nước
trôi ắt về biển, trăng lặn chẳng lìa trời”
(Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn – Chân
Không)
Vd: “ Lửa
bùng thêu đến mây tơ
Ngàn năm mây trắng bây
giờ còn bay’
( Niệm tụng kệ - Trần Thái Tông)
3.2.2.Cảm thức về vô thường:
Thế giới hiện tượng là hư ảo, vô thường, luôn
vận động biến đổi và tuân theo quy luật:
- Vạn vật trong thế giới
hiện tượng không ngừng thay đổi.
vd: “ Y cẩu
phù vân biến thái đa
Du du đô phó mộng Nam
Kha”
( Đời như đám
mây nổi, luôn luôn thay nhiều vẻ
Mơ màng đành
phó cho giấc mộng Nam Kha)
(Thế thái hư huyễn – Tuệ Trung)
- Sự thay đổi đó diễn ra
rất nhanh chóng và theo chu kỳ. Các tác giả thường dùng hai mùa: xuân, thu là
hai mốc thời gian chính có ý nghĩa tiêu biểu:
Vd: “ Vạn mộc xuân vinh , thu hựu khô”
( Vạn cây cỏ
mùa xuân tươi tốt, mùa thu khô héo)
(
Thị đệ tử- Vạn Hạnh)
Vd: “ Xuân chức hoa như cẩm
Thu lai diệp tự hoàng”
(Xuân dệt hoa
như gấm
Thu gieo lá
đốm vàng)
(
Tham đồ hiển quyết)
→ Các nhà thơ muốn nhắn
nhủ con người cần hiểu biết quy luật và sống thuận theo quy luật, đừng nên phí
thời gian tìm hiểu thắc mắc và cũng không ai có thể giải đáp về lẽ tự nhiên
huyền vi này:
“ Tự khai, tự tạ tùy
thời tiết
Vẫn trước đông quân
tổng bất tri”
(Hoa tự nở,
tư tàn theo thời tiết
Nếu có hỏi ,
chúa xuân cũng không biết)
(Sư đệ vấn đáp – Trần Nhân Tông)
3.2.3 Thái độ tự tại của người giác ngộ:
Con
người tự do với tinh thần phá chấp triệt để. Mục tiêu ở đây cái tâm trống
không “vô ưu sở tại”như gương sáng
vốn không đài , chẳng để vật gì có thể bám được vào, chỉ tâm không” mới đạt
được cái trong sáng của “ chân như”
và sự tự do tự tại. Tinh thần “ phá chấp”
triệt để đòi hỏi con người cảnh giác cả những giáo lý ,kinh điển của Phật, của
Tổ , không chấp vào sắc tướng , vào “ có”
đã đành mà cũng chớ mắc vào cái ‘ không” ,“ chớ bảo tâm không là đạo” vì “tâm không còn cách đạo cửa quan”
“Tâm khí vô tâm, đạo
hướng thùy?
Mộng hồi á tử nhãn ma
di
Lão tăng mạn đạo năng
an cảnh ,
Tiểu sát băng quan bất
tự tri.”
( Tâm đã vô
tâm nói với ai?
Thằng câm
tỉnh mộng mắt tròn ngây
Tăng già nói
láo an rồi đó,
Cười ngất bàng
quan chẳng tự hay)
(Niệm tụng kệ - Trần Thái Tông)
Con người không vướng mắc,
lệ thuộc vào cái gì, con người sẽ không còn lo sợ chuyện sống chết, thịnh suy,
lo sợ thời gian qua nhanh, lo sợ không đạt đạo, tiếc cuộc ngắn ngủi… tinh thần “vô úy” làm con người thực sự là chính
mình, tự do, như ông chài trong thơ Không Lộ ( ? – 1119) đã đánh giấc ngon lành
giữa bao la trời đất, không quan tâm đến thời gian…
“Sông xanh muôn dặm,
trời muôn dặm
Một xóm dâu gai, một
xóm khói mây
Ông chài ngủ say tít
không ai gọi
Quá trưa tỉnh dậy tuyết
xuống đầy thuyền”
( Ngư nhàn- Dương Không Lộ)
Đồng thời đó cũng là con người vô ngã. Tức là không có cái tự ngã của mình sống hòa làm
một cùng vũ trụ vô biên , không còn phân biệt đó là mình hay là khách thể,
nghĩa là thoát khỏi ranh giới của sự hữu hạn để đạt tới cảnh giới tuyệt đối –
niết bàn nơi trần thế. Con người chấp ngã vượt lên trên sự tranh chấp phải – trái,
xấu – tốt, khôn – ngu, đạt đến cái tâm bình đẳng và cái nhìn độ lượng đối với
vạn vật.
Hiện
lên trong thơ thiền Lý – Trần còn là con người
- vô uý. Có thể thấy bóng dáng con người ấy trong những hình ảnh thiên
nhiên giản dị mà rất đặc trưng.
“Lưu thủy hạ
sơn phi hữu ý
Bạch vân xuất tụ bản vô
tâm”
(Nước chảy
xuống đồi không có ý
Mây ra khỏi
núi vốn vô tâm)
( Ngữ lục vấn đáp môn hạ- Trần Thái Tông)
Chính nhờ tinh thần vô ngã mới có được cái vô
tâm, vô uý này.
“Ổi dư cốt đột tuyệt
phần hương,
Khẩu đáp sơn đồng vấn
đoản chương
Thủ bả suy thương hòa
thái thác
Đồ giao nhân tiếu lão
tăng mang”
( Củi đã tàn,
cũng chẳng thắp hương
Miệng trả lời chú bé con trong núi
hỏi về những chương sách ngắn
Tay cầm ống thổi , tay nhặt mo nang,
Luống để
người ta cười ông sư già ngày bận bịu)
( Địa lô tức sự)
Hình ảnh ông già bình dị cởi mở vừa làm những
công việc lao động chân tay lặt vặt của đời sống – nhóm bếp, thổi lửa – vừa trò
chuyện với trẻ con , chứ không phải là một thiền sư suốt ngày chăm lo việc ngồi
thiền hay tụng kinh niệm phật. Trong thế giới thiền còn xuất hiện con người vô
ngôn – lặng yên không nói. Bởi vì ngôn ngữ hữu hạn không thể diễn đạt được chân
lí vô cùng. “Dĩ tâm truyền tâm” là
phương châm được đề cao tuyệt đối. Có rất nhiều phút giây yên lặng không nói
được bắt gặp trong thơ thiền Lý – Trần .
“Tâm khôi oa giác mộng
Bộ lí đáo thiền đường
Xuân vãn hao dung bạc
Lâm u thiền vận trường.
Vũ thu thiên nhất bích
Trì tịnh nguyệt phân
lương..
( Lòng nguội
lạnh với giấc mơ đua chen danh lợi,
Dạo bước đến
cửa thiền.
Xuân muộn,
dáng hao mỏng mảnh,
Rừng sâu,
tiếng ve ngân dài .
Mưa tạnh,
trời một màu xanh biếc
Ao trong
lặng, trăng tỏa hơi mát dịu…)
( Đề gia lâm tự - Trần Quang Triều)
Cả bài thơ mang nhiều yếu
tố khơi gợi trực cảm màu biếc, sắc trong, tiếng ve kêu…tất cả hòa điệu thành
một thứ ngôn ngữ siêu ngữ của cả con người và đất trời vạn vật. Cảm xúc bài thơ
gợi lên trong người đọc đa âm và vô giới
hạn.
“Phong đả tùng quan,
nguyệt chiếu đình
Tâm kì phong cảnh cộng
thê thanh.
Cá trung tự vị vô nhân
thức
Phó dữ sơn tăng lạc đáo
minh”
( Gió đập cửa thông, trăng chiếu trên sân
Lòng hẹn với
phong cảnh cùng lạnh lẽo trong trẻo
Mặc tình cho
nhà sư trong núi vui đến sáng).
(Kí
thanh phong am tăng Đức Sơn - Trần Thái Tông)
Những giây phút thực tại
hòa điệu giữa con người và vũ trụ đem lại niềm an lạc thú vị không thể giải bày
bằng lời mà chỉ người trong cuộc mới cảm nhận được.
Tinh thần vô ngôn và
trạng thái lặng yên hòa nhịp với vũ trụ rất được đề cao ở thơ thiền đời Trần và
ảnh hưởng đến nửa đầu thế kỉ XV ( Nguyễn Trãi).
4. Ðiểm tương đồng và dị biệt trong thơ Haicu và thơ thiền
Lý- Trần qua việc thể hiện tư tưởng Phật giáo.
4.1. Tương đồng
4.1.1.Cái nhìn bản thể luận
Xét đến cùng thì quan niệm về bản thể của
thơ thiền Lý – Trần và thơ Haiku của Nhật Bản đề có những điểm tương đồng nhất
định. Hoàn toàn không khó để lí giải về sự tương đồng này, cả thơ thiền Lý –
Trần và thơ Haiku đều chịu ảnh hưởng hưởng bởi tư tưởng phật giáo Trung Hoa.
Khi nó du nhập vào mỗi nước nó có sự cải biến cho phù hợp với truyền thống của
từng dân tộc. Nhưng cái nhìn bản thể luận hay nói cách khác đó là quan niệm về
thế giới không có nhiều sự thay đổi. Cả thơ thiền Lý – Trần và thơ Haiku Nhật
Bản đều xem toàn bộ thế giới là do chính cái bản thân sự vật vốn có, tức là cái
bản chất tối sơ, nguyên thủy. Thơ thiền Lý – Trần xem bản thể là cái bản thể
chân như và các dạng tồn tại muôn màu muôn vẻ của các pháp. Nó được biểu hiện
cụ thể thành quan niệm khởi điểm là Sắc – Không. Ðể rồi từ đó đi đến nhận thức
thực tướng – giả tướng, rồi khái quát thành triết lý “vạn vật nhất thể”:
“Sắc tức thị
không
Không tức thị
sắc”
Hay:
“Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thể thông thông thục bất bi ?”
Cả thơ thiền Lý – Trần và
thơ Haiku đều xem thế giới là hư ảo, vô thường, luôn vận động, biến đổi không
ngừng. Mọi hiện tượng mà ta cảm nhận được: trăng, mây, mai, chim, quạ, bướm,…
tất cả đều là hư ảo, nó chỉ tồn tại ở một khoảnh khắc nhất định rồi biến đổi vô
thường. Ðó chính là cái nhìn: Nhất đa tương dung, lý sự vô ngại, tương nhập
tương tức” (Một và nhiều dung hợp nhau, nguyên lý và vạn vật cũng như vạn sự,
vạn vật không có gì làm trở ngại nhau,
cái này thể nhập vào cái kia, cái kia cũng tức là cái này”). Cả hai nhìn thế
giới hiện thực khách quan mà con người đang sống là giả tướng, cái mà con người
ta thấy đó là thực, là hiện hữu chẳng qua đều là ảo ảnh do vọng kiến mà sinh
ra. Tuy trong thơ Haiku không nói cụ thể nhưng ta vẫn có thể nhận ra điều này.
Sự vật hiện tượng mà nhà thơ miêu tả: hoa anh đào, chim quạ, bướm, con ếch,
thậm chí là con người như du nữ, kĩ nữ,… tất cả đều có mối tương giao cùng vũ trụ. Những
đối tượng đó là hiện tượng của vụ trụ, vũ trụ là cái bản thể còn mọi vật là
hiện tượng chỉ có bản thể là tồn tại vĩnh viễn còn hiện tượng luôn chuyển hóa,
biến đổi vô thường.
“Hoa rụng cành
Nơi trở lại - khi tôi nhận ra
Thì ra đàn bướm”
Ở đây nhà thơ đã thấu
hiểu sâu sắc cái vô thường và bản ngã con người của triết lý nhà Phật. Vì thế,
câu cuối bài thơ "thì ra đàn bướm" tạo ra một sự bất ngờ làm nên một
tầng nghĩa mới. Về điều này chúng ta Có thể liên tưởng đến hai câu thơ của Mãn
Giác Thiền sư :
"Chớ
thấy xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm
qua sân trước một cành mai".
Cái vô thường của thế giới còn nằm ở cánh hoa
anh đào:
“Nhiều chuyện
làm nhớ lại
Hoa
anh đào”
Hoa
anh đào đối với người Nhật có ý nghĩa đặc biệt, nhìn hoa anh đào khiến người ta
chợt nhớ bao mùa hoa anh đào trong quá khứ. Còn nói theo ngôn ngữ nhà Phật, hoa
anh đào là biểu tượng của sự vô thường trong cuộc đời.
Hình ảnh của một loài hoa mong
manh, mang kiếp sống phù du, giữa màn đêm sương khói huyền ảo, âm thầm lặng lẽ
hé nở những cánh mỏng lụa là, như đem sức sống cuộn trào vào từng hơi thở của
người thưởng ngoạn, phải chăng đó là một niềm hy vọng bí ẩn, khó hiểu của một
loài hoa kiều diễm mang tên Nữ Hoàng Đêm
“Nữ Hoàng Đêm mảnh khảnh
Trong âm thầm hé nụ phô hoa
Niềm tin yêu huyền bí”
Hình
ảnh nụ hoa e ấp, tinh khôi, lộng lẫy đang chờ đợi khoe sắc…. đâu biết rằng kiếp
sống ấy là tạm bợ, ngắn ngủi sẽ đến hồi chấm dứt khi bình minh chợt sáng, chẳng
khác gì bóng câu qua cửa sổ, giọt sương hư ảo trên cành, … Những hình ảnh trữ
tình, những biểu tượng thâm thúy, những tín hiệu đặc biệt đã thu hút và dẫn dắt
tâm tư người đọc vào một thế giới cao siêu để tự suy niệm về kiếp nhân sinh của
con người quanh quẩn trong cuộc sống phù trầm đầy oan khiên nghiệp chướng.
Thống kê:
Nghệ thuật
|
Thơ thiền Lý – trần
|
Thơ Hai kư
|
Quan điểm
|
Hướng tới một mục đích
cảnh tĩnh giác ngộ hay bày tỏ tâm trạng cảm xúc thiền của nhà thơ (đậm yếu tố
chủ quan).
|
Biểu hiện sự thật trong
tính chất tự nhiên thoải mái, không phân tích bình luận (yếu tố cảm quan vắng
mặt).
|
Nguyên tắc khơi gợi trực cảm
|
Giảng nhiều gợi ít ,
giá trị chân thiện mỹ được xem trọng, nhiều lúc dùng vô ngôn để biểu đạt ý
tưởng.
|
Chủ yếu là gợi, chân là
yếu tố quyết định, vô ngôn được dùng thường xuyên tạo khoảng trống để đọc giả
cảm nhận.
|
Thi pháp: hình ảnh thiên nhiên cách diễn đạt
|
Có khi là thiên nhiên
đích thực cũng có khi là thiên nhiên biểu tượng, mang vẻ đẹp trong sáng, giàu
chất thơ bát ngát rộng lớn, hoành tráng, độc đáo nhờ những hình ảnh kì lạ,
cách diễn đạt nghịch ngôn, phi lôgic.
|
Luôn là thiên nhiên
đích thực được cảm nhận qua những sự vật hiện tượng thường ngày được tác giả
bắt gặp, mang vẻ đẹp mộc mạc, bình dị hồn nhiên tươi mát, không hề có sự nghịch thường, hoàn toàn (hình ảnh) hiện thực, cách
diễn đạt giản dị.
|
Trạng thái cảm xúc
|
Hầu như sự an nhiên
bình thản của tâm hồn là trạng thái nổi bật. Tình yêu say cuộc sống được hòa
lẫn trong sự an vui của cái tâm hồn đã ngộ đạo
|
Có một sự phức hợp cảm
hứng có phần mâu thuẫn giữa sự bình yên thanh thản của tâm hồn, tình yêu say
cuộc sống và sự bi cảm của thế giới vô thường; có bốn trạng thái cảm xúc:
sabi, wabi, aware, yugen.
|
4.1.2. Lấy thiên nhiên làm đối tượng để thể hiện
triết lí và cảm quan thiền
Thơ haicư và thơ thiền Lý Trần đều lấy thiên
nhiên làm đối tuợng miêu tả.
Thiên nhiên bao trùm lên tất cả, cũng như cái tâm thiền an lạc tràn ngập hồn
người. Chỉ miêu tả chứ không diễn giảng, các bài thơ đã “ chừa chỗ” cho người
đọc cộng hưởng với khoảnh khắc “ vong ngã”của tác giả trước vẻ đẹp thế giới. Thiên
nhiên là đối tượng để con người bày tỏ cảm xúc trước cái đẹp. Đôi khi thiên
nhiên vừa là hình ảnh thực, vừa là một ẩn dụ về sự bừng sáng của trí tuệ giữa
khoảng không bao la của vũ trụ - tâm hồn. Thiên nhiên đôi khi sinh động , cái
sinh động của sự chuyển động nhưng dường như im lìm bao phủ lấy con người.
Thiền vị của các bài thơ có thể nói toát ra từ chính sự giao hòa tự nhiên giữa
người và cảnh.
Thi liệu
|
Thơ Hai kư
|
Thơ thiền Lý -Trần
|
Mùa
|
- Trên cành khô
quạ đậu
chiều thu
(Matsuo Basho)
- Ðất khách mười mùa
sương
về thăm quê nghoảnh lại
Êđô là cố hương
(Matsuo Basho)
- Mưa xuân lất phất rơi
Vừa đi vừa thủ thỉ
Ô và áo tơi
(Yosa Buson)
- Vượn hú não nề
Hay trẻ bị bỏ rơi than
khóc ?
gió mùa thu tái tê
(Matsuo Basho)
- Mưa đông giăng đầy
trời
và “Người lữ khách”
sẽ là tên tôi
(Matsuo Basho)
- Mặt trời đỏ cuối hè
vô tâm tỏa ánh nắng
gió heo may đã về
(Matsuo Basho)
- Mùa xuân qua đi
sao cứ nhớ mãi
người cũ ở Ô-mi
(Matsuo Basho)
- Lều bán cá đông về
hàm răng cá hồng muối
cũng lạnh tê
(Matsuo Basho)
- Ðặt chân vào vách
hơi mùa thu lành lạnh
lan vào giấc ngủ trưa
(Matsuo Basho)
- Mùa thu đang tới gần
gởi lòng mình trở lại
phòng rộng vài bước
chân
(Matsuo Basho)
- Mùa thu năm nay
sao mình già nhanh thế
cánh chim khuất trong
mây
(Matsuo
Basho)
- Con đường tôi đi
không còn ai điếu nữa
chiều tàn mùa thu
(Matsuo
Basho)
|
- Cây cỏ xuân tươi thu
đượm hồng
(Thị đệ tử -
Vạn Hạnh)
- Thu về, móc nhẹ, cúc
đơm hoa
(Cúc hoa IV)
- Đêm vắng sân thu lác
đác sương
(Nguyệt – Trần
Nhân Tông)
- Xuân sang hoa nở rộn
tơ lòng
(Xuân vãn – Trần Nhân Tông)
- Xuân sang hoa bướm
khéo quen thì
(Hoa điệp – Giác
Hải)
- Năm nay hạ hạn lại
thu mưa
(Nhâm dần lục nguyệt
tác)
- Đáng thương vô hạn,
thương xuân ý
(Tức cảnh ngày
xuân – Huyền Quang)
- Ngôi chùa cổ lạnh lẽo
sau lớp khói mùa thu
( Lạng Châu vãn
cảnh)
-
Nước thu in bóng núi gầy
(Nhập tục luyến Thanh Sơn)
|
Hoa
|
- Rì rào rì rào
tiếng hoa dã quỳ rụng
hay tiếng thác trên cao
(Matsuo Basho)
- Hoa mẫu đơn rã rời
không rụng ào ạt
từng hai ba cánh thôi
(Yosa Buson)
- Từ đám mây hoa
tiếng chuông vọng lại
chùa U-ê-nô hay
A-sa-ku-sa?
(Matsuo
Basho)
- Ôi! Hoa triêu nhan
Tay quấn vào gầu nước
Đành sang giếng nhà bên
(Kagano
Chiyojo)
- Ở cố đô Nại Lương
hoa cúc và tượng Phật
cổ
ngạt ngào hương
(Matsuo Basho)
- Bên vệ đường
hoa tầm xuân nở
như đường quê hương
(Yosa Buson)
- Bên vệ đường
bìm bìm hoa tím
ngựa ăn mất!
(Matsuo Basho)
- Ðêm đen
hoa mơ nở trắng
bình minh lên
(Yosa Buson)
|
- Thấy hoa cúc nở biết
trùng dương
(Cúc hoa III – Huyền Quang)
- Thu về, móc nhẹ, cúc
đơm hoa (Cúc hoa IV- Huyền Quang)
- Thông rụng nức mùi
hoa
( Đề Gia Lâm tự - Trần Quang Triều)
- Trên cành hoa quế,
nguyệt lồng giường
(Nguyệt
– Trần Nhân Tông)
- Nệm cỏ ngồi yên, ngó
rụng hồng
(Xuân
vãn – Trần Nhân Tông)
- Nắng rợp ngõ hoa hồng
( Đăng bảo đài sơn – Trần Nhân Tông)
|
Ánh trăng
|
- Chung một mái trọ
những du nữ ngủ
trăng và hoa thu
(Matsuo Basho)
- Tuyết tan rồi
tròn xoe láng bóng
ông trăng trên trời
(Kagano Chiyojo)
- Trăng mùa hè
chiếu lên sóng không bụi
dòng Sông Trong
(Matsuo Basho)
- Dưới ánh trăng kìa
đêm vẫn còn bán nước
phố Ni-hôn-ba-shi
(Kobayashi Issa)
|
- Gió mát trăng thanh
dịu nỗi lòng
(Cúc hoa IV)
- Lưới bủa vầng trăng,
mây khóm cành
(Tảo thu – Huyền Quang)
- Ao trong ánh trăng
ngà
(Đề Gia Lâm tự - Trần Quang Triều)
- Trên cành hoa quế,
nguyệt lồng giường
( Nguyệt- Trần Nhân Tông)
- Đầy ngực ánh trăng
trong
( Đăng bảo đài sơn – Trần Nhân Tông)
- Gió cành tùng trăng
đầy sông
(Tầm hưởng – Thiền sư Minh Trí)
-
Gió sân trăng gõ cành tùng
(Kí thanh phong am tăng Đức Sơn)
|
Nước
mây, núi
|
- Biển hoang sơ
sông ngân vắt ngang
trời
tuôn xuống đảo Sa-đô
(Matsuo Basho)
- Sương mù bao phủ
Fuji chìm khuất rồi
núi hiện hình trong tôi
(Matsuo Basho)
- Trên sườn núi bất ngờ
mặt trời mọc rực rỡ
trong hương hoa mơ
(Matsuo Basho)
- Lang thang đồng nội
để cho mưa gió
thấm vào hồn tôi
(Matsuo Basho)
|
- Cửa mở tận từng mây
( Ở am Yên Tử)
- Bóng chìm đáy nước
(Hương hải)
- In ngược hình chim
gương nước lạnh
(Diên
Hựu tự - Huyền Quang)
- Hoa tan, mưa tạnh ,
non im ắng
(Sơn
phòng mạn hứng –Trần Nhân Tông)
- Thiềm hoa chiều rợp bóng mây bay
( Xuân cảnh -– Trần Nhân Tông)
- Gần xa mây núi ngất
(Đăng bảo Đài Sơn – Trần Nhân Tông)
- Hoa rụng hết mưa đã
tạnh , núi non tịch mịch
( Mạn hứng ở Sơn Phòng)
- Gió im mây nhởn nhơ,
cây lơ thơ lá đỏ
( Lạng Châu vãn cảnh )
-
Nước thu in bóng núi gầy (Nhập tục luyến thanh sơn – Pháp Loa)
|
Loài vật
|
- Băng qua cánh đồng
chiều
ghìm cương quay đầu ngựa
nghe tiếng quyên kêu
(Matsuo Basho)
- Mùa xuân lên đường
mắt cá đẫm lệ
chim chóc khóc thương
(Matsuo Basho)
- Trên chuông chùa
Một cánh bướn nhỏ
Ngủ im lìm
(Yosa Buson)
- Chim tử quy kêu
cuộc đời phiền muộn
tan vào cô liêu
(Matsuo Basho)
- Ðêm trăng hè
tiếng chim đỗ vũ
lọt vào răng tre
(Matsuo Basho)
- Hơi nóng bốc không
trung
Loài sâu lạ
Bay ra trắng đồng
(Yosa Buson)
-Tránh ra đi, tránh ra
Chú sẻ nhỏ
Vó ngựa sẽ phóng qua
(Kobayashi Issa)
- Chú ếch đồng
Ngắm nhìn đỉnh núi
Dáng điệu thung dung
(Kobayashi Issa)
- Ðừng đánh, dừng đi
thôi!
Chú ruồi đang xoay tay
rối rít
Và xoay chân như người
(Kobayashi Issa)
- Chim đỗ quyên hót
ở Kinh đô
mà nhớ Kinh đô
(Matsuo Basho)
- Tiếng chim oanh
từ bụi tre lạnh giá
đưa đến hàng liễu xanh
(Matsuo Basho)
- Biển hoàng hôn
vang lên tiếng vịt
trắng mờ
(Matsuo Basho)
|
- Trúc lâm nhiều chim
ngủ
Quá nửa bạn với thầy
(Ở am
Yên Tử)
- Nhạn bay trên không
( Hương hải)
- Rừng thẫm ve ngân nga
(
Đề Gia Lâm tự - Trần Quang Triều)
- Vượn nhàn, ngựa mõi, ta già lão
( Sơn
phòng mạn hứng –Trần Nhân Tông)
- Rè rè tiếng dế gọi
kêu ai
(
Sơn vũ)
- Chim nhẩn nha kê,
liễu trổ dày
(Xuân
cảnh – Trần Nhân Tông)
- Bướm liệng hoa cười
vẫn đúng kỳ
( Hoa điệp – Giác Hải)
- Líu lo anh hót khóm
hoa gần
(Tức cảnh ngày xuân – Huyền Quang)
- Nước trong, núi lặn, chim âu trắng bay qua
( Lạng châu
vãn cảnh)
-
Cò trắng từng đôi là là xuống đồng
(Thiên
trường vãn vọng)
|
4.2 Ðiểm dị biệt :
Thơ
Ðiểm
Khác
|
Thơ Haiku
|
Thơ thiền
Lý – Trần
|
Kết cấu
|
Thơ Haiku không có kết cấu hay nói khác hơn Haiku là một khoảnh khắc
liên quan đến cảm quan thiền. Nó chỉ là cảm quan đơn độc lưu giữ lại một
khoảnh khắc tồn tại của sự sống như một tấm ảnh chụp. Có thể đó là khoảnh
khắc tồn tại của một con quạ trong một buổi chiều thu ảm đạm:
Trên cành khô
Chim quạ đậu
Chiều thu.
(Basho)
Cành khô, chim quạ đậu hai hình ảnh như im lặng, không có sự sống
nhưng đó chính là khoảnh khắc tồn tại của con quạ - sự tồn tại của sự sống.
Ðó có thể là khoảnh khắc tồn tại của con ếch trong cái vĩnh cửu của
không gian và thời gian:
Ao cũ
con ếch nhảy vào
vang tiếng
nước xao.
(Basho)
Nhờ cú nhảy của con ếch
mà xao động cả mặt ao đánh thức sự yên tĩnh của sự vật, đánh thức cả không
gian vũ trụ. Basho đã nắm bắt được khoảnh khắc sinh động nhất của cái nhất
thời (con ếch nhảy) trong cái vĩnh cửu của không gian và thời gian (ao cũ).
Ðó có thể là khoảnh
khắc rực rỡ nhất của hoa anh đào.
Hoa đào như
áng mây xa
Chuông đền
Ueno vang vọng
Hay đền
Asakusa.
(Basho)
Hoa đào nở rộ hòa cùng
tiếng chuông đền tạo ra không gian mênh mông, huyền ảo làm say đắm lòng
người. Ðó là khoảnh khắc đẹp nhất của thiên nhiên.
|
Kết cấu là điều rất
quan trọng trong thơ thiền Lý – Trần. Một bài thơ ngắn nhất cũng có sự tổ
chức ý tưởng, hình tượng để thể hiện một nhận thức, một cảm xúc dựa trên bản
thể luận phật giáo. Mỗi bài thơ đều có sự liên quan giữa nhận thức, hình
tượng và tình cảm.
Trong cây sẵn có lửa
Có lửa,
lửa lại sinh
Nếu bảo cây không lửa
Cọ xát làm gì sinh
(Triều đình tham chính.Soạn thảo văn kiện- ngoại giao- Tiền Lê)
|
Yếu tố
trữ tình
|
Thơ Haiku yếu tố trữ tình chiếm ưu thế. Bài thơ chủ yếu dùng để bộc lộ
cảm xúc trước những khoảnh khắc của thiên nhiên ở bất kì khía cạnh nào, có
phản phất chất thiền. Ở đó con người an trú trong từng khoảnh khắc, con người
lắng đọng từ từ để đi đến cái tâm không vọng tưởng. Hay nói khác hơn thơ
Haiku thiên về tình cảm.
“Nằm bệnh giữa cuộc lãng du
Mộng hồn còn phiêu bạt
Những cánh
đồng hoang vu.”
Bài thơ vừa thể hiện sự
an nhiên của con người khi đứng trước cái chết vừa thể hiện khát vọng được
tồn tại, được khám phá cuộc sống trần thế.
“Sắp chết rồi
Không nhìn thấy
Tiếng ve ”.
(Basho)
Ðó là tình cảm nhà thơ
dành cho thiên nhiên, cho sự sống.
“Bên vệ đường
Hoa tầm xuân nở
Như đường quê hương ”.
(Buson)
Ðứng trước vẻ đẹp của những
đóa hoa dại bên đường nhà thơ xao xuyến rung động cảm thấy quen thuộc.
Lại đây với tôi
Ta cùng chơi nhé
Chú sẻ mồ côi
(Issa)
Tác giả đã dành tình
cảm cho những sinh vật nhỏ bé nhất. Ðó là tình cảm hết sức bình thường, gần
gũi
|
Trong thơ thiền Lý-
Trần, yếu tố trữ tình có quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ ít đến
nhiều. Trong thơ thiền lý, yếu tố trữ
tình rất mờ nhạt nhưng đến thơ thiền ý
yếu tố trữ tình xuất hiện nhiều hơn
nhưng vẫn không bằng thơ Haiku (yếu tố trữ tình phát triển cao nhất là
ở thơ Haiku). Thường thiền Lý-Trần dùng để bộc lộ những quan niệm đúng của
Phật giáo. Hay nói khác hơn thơ Thiền Lý- Trần thiên về khái niệm.
Thân như tường vách đã lung lay
Đau đáu người đời luống xót thay
Nếu đạt tâm không,khôngtướng sắc
Sắc không ẩn hiện mặc vần xoay)
( Viên chiếu. Thời Lý)
|
C. PHẦN KẾT LUẬN
Thơ thiền Lý Trần là thế giới nghệ thuật
mới lạ đầy sức thu hút nhờ xây dựng trên cái nền cơ bản là sự trực cảm tâm linh
vượt khỏi tầng không gian của suy luận và nhận thức lý trí.Nó có xu hướng vươn
tới một không gian và thời gian không có giới hạn và đạt tới sự hợp nhất không
gian thời gian để phá bỏ mọi giới hạn đối với con người.
Thơ
thiền Lý - Trần thông qua tâm của người đạt đạo để đi đến cái chân như. Còn thơ
Haicư đi thẳng đến tâm của vạn vật vũ trụ, tức chân như không thông qua cầu nối
là cái chủ quan của con người. Thơ Haicư chỉ ghi chép về thế giới chung quanh
còn thơ thiền Lý - Trần mượn thế giới xung quanh để ngụ ý về đạo. Cùng một vị
thiền, một cái tâm tự tại nhưng sự thể hiện giữa đôi bên có những sắc thái và
mức độ khác nhau. Điều này do ở tập quán tư duy và tâm lý dân tộc.
PHỤ LỤC
THƠ THIỀN
1.Mộc trung nguyên hữu hỏa ( Trong cây
sẵn có lửa
Hữu hỏa, hỏa hoàn sanh
Có lửa, lửa lại sinh
Nhược vị mộc vô hỏa
Nếu bảo cây không lửa
Toản tại hà do manh
Cọ xát làm gì sinh)
( Triều đình tham chính.Soạn thảo văn kiện- ngoại giao- Tiền Lê)
2. Thân như điện
ảnh hữu hoàn vô Thân
như chớp bóng có rồi không
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Cây cỏ xuân tươi thu đượm hồng
Nhân vạn thịnh suy vô bố úy Mặc cuộc thịnh suy không sợ hãi
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô Thịnh suy như hạt cỏ sương đông)
( Vạn hạnh- Tiền
Lê→Lý, người phò tá Lý Công Uẩn)
3. Thân như tường
bích dĩ đồi thì ( Thân như tường vách đã lung lay
Cử thơ thông thông thực bất bi Đau đáu người đời luống xót thay
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Nếu đạt tâm không, không tướng sắc
Sắc không ẩn hiện nhậm suy di Sắc không ẩn hiện mặc vần xoay)
( Viên chiếu.
Thời Lý)
4. Phải quấy niệm rời hoa buổi sớm
Lợi danh tàn lạnh với mưa đêm
Mưa tạnh, hoa trơ, non vắng lặng
Chim kêu một tiếng lại xuân tàn
5.
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên (
Ở trần vui đạo hãy tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Đói đến thì ăn, nhọc ngủ liền
Gia trung hữu bảo ngưu tầm mích Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền)
( Trần
Nhân Tông)
6.
SƠN VŨ 7.
Ở AM YÊN TỬ
Gió thu đêm vắng thổi hiên ngoài Cao ngất am lạnh lẽo
Chùa núi im lìm gối cỏ may Cửa mở tận từng mây
Đã được thành thiền tâm một khối Mặt trời soi long động
Rè rè tiếng dế gọi kêu ai Tuyết
đầy che hổ khê
Vụng về không mưu lược
Nương gậy đỡ thân gầy
Trúc Lâm nhiều chim ngủ
Quá nửa bạn với thầy
8. HƯƠNG HẢI
Nhạn quá trường không (
Nhạn bay trên không
Ảnh trầm hàn thủy
Bóng chìm đáy nước
Nhạn vô di tích chi ý
Nhạn không ý để dấu
Thủy vô lưu ảnh chi tâm Nước
không tâm lưu bóng
(
thế kỉ XVII- đầu thế kỉ XVIII, tu tại đàng trong , chúa Nguyễn)
9. DIÊN HỰU TỰ
Thượng phương thu dạ nhất chung lan ( Đêm thu chùa thoảng tiếng chuông tàn
Nguyệt sắc như ba phong thụ đan In ngược hình chim , gương nước
lạnh
Xi vẫn đảo miên phương kính lãnh Sẫm đôi bóng tháp , ngón
tiêu hàn
Vạn duyên bất nhiễu thành già tục Muôn duyên chẳng vương : xa trần tục
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan Một mãi nào lo : rộng nhãn quan
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng Thấu hiểu thị phi đều thế cả
Ma cung phật quốc hảo sinh qua Dầu ma dầu phật , chốn nào hơn)
( Huyền Quang)
10. CÚC HOA III
Vong than vong thế, dĩ vô vương
(vong) ( Quên mình quên hết cuộc tang thương
Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương Ngồi lặng đìu hiu, mát cả giường
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật Năm cuối trong rừng không có
lịch
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương Thấy hoa cúc nở biết trùng dương)
( Huyền Quang)
11. CÚC HOA IV
Niên niên hòa lộ hướng thu khai (Thu về, móc nhẹ, cúc đơm hoa
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn
hoài Gió mát trăng thanh dịu nỗi long
Khan tiếu bất minh hoa diệu xứ Vẻ
đẹp tinh khôi người chẳng hiểu
Mãn đầu tùy đáo tháp qui lai Bẻ về cài tóc đáng cười không.)
12. TẢO THU
Dạ khí quân lương nhập họa bình Hơi mát thâu đêm lọt tới
mành
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh Cây sân xào xạc báo thu
thanh
Trúc đình vong thích hương sơ tận Bên lều quên bẵng hương vừa tắt
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh Lưới bủa vầng trăng, mây khóm cành
(Huyền
quang)
13. ĐỀ ĐẠM THỦY TỰ
Đạm thuy đình biên dã thảo đa Bên đền đạm thủy
có đua hoa
Không sơn vũ tễ tịch dương tà Mưa tạnh, non quang, bóng ngã dài
Nhân qua liễn lộ đầu thiền thất Tiên lối xe vui
vào vãn phật
Ứng phạn xao chung giản lạc hoa Thỉnh chung, giúp sãi
nhặt hoa rơi
(Huyền
quang)
14. ĐỀ GIA LÂM TỰ
Tâm khôi ra giác mộng Nguội
ngắt long danh lợi
Bộ lý đáo thiền đường Am
thiền rảo gót qua
Xuân vãn hoa dung bạc Xuân
chày hoa mỏng mảnh
Lâm u thiền vận trường Rừng
thẫm ve ngân nga
Vũ thu thiên nhất bích Mưa
tạnh dạ trời biếc
Trí tĩnh nguyệt phân lương Ao trong ánh trăng ngà
Khách khứ tăng vô ngữ Khách
về sự biến nói
Tùng hoa mãn địa hương Thông
rụng nức mùi hoa
( Trần Quang Triều)
15. SƠN PHÒNG MẠN HỨNG
(I )
Thùy phục canh tương cầu giải thoát Ai trói buộc chi , tìm giải thoát?
Bất phàm , hà tất mịch thần tiên? Khác phàm đâu phải kiếm thầntiên
Viên nhàn , mã quyện , nhân ưng lão Vượn nhàn , ngựa mỏi, ta gia lão
Y cựu vân trong nhất tháp thiền Như trước , am mây chốn
tọa thiền
(II) Thị phi niêm trục triêu hoa lạc Phải
trái rụng theo hoa buổi sớm
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn Lợi
danh lạnh với tận mưa đêm
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch Hoa
tàn mưa tạnh non im ắng
Nhất thanh đề diểu hựu xuân tàn Xuân cõi còn dư một tiếng chim
( Trần Nhân Tông)
16. NGUYỆT
Bán song đăng ảnh màn sàng thư Đèn song chếch bóng, sách đầygiường
Lộ trích thu đình dạ khí hư Đêm vắng sân thu
lác đác sương
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ Thức dậy tiếng chày đâu chẳngbiết
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ Trên cành hoa quế nguyệt
lồng giường
(Trần Nhân
Tông)
17. XUÂN VÃN
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không Tuổi
trẻ chưa từng lẽ sắc không
Nhất xuân tam tại bách hoa trung Xuân sang hoa nở rộn tơ lòng
Như kim khám phá đông hoàng diện Chúa xuân nay đã thành quenmặt
Thiền bản đồ đoàn khan trụy hồng Nệm
cỏ ngồi yên, ngó rụng hồng
( Trần Nhân Tông)
18. XUÂN CẢNH
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì Chim nhẩn nha kê, liễu trổ dày
Hoa đường thiềm ảnh mộ vân phi Thềm
hoa chiều rợp bóng mâybay
Khách lại bất vấn nhân gian sự Khách vào chẳng hỏi
chuyện nhân thế
Cộng ỷ lan can khan thủy vi Cùng tựa lan can
nhìn núi mây
( Trần Nhân Tông)
19. ĐĂNG BẢO ĐÀI
SƠN
Địa tịch đài du cổ Đất vắng đài thêm cổ
Thời lai xuân vị thâm Ngày
qua, xuân chửa nồng
Vân sơn tương viễn cận Gần
xa, mây núi ngất
Hoa kính bán tình âm Nắng
rợp ngõ hoa hồng
Vạn sự thủy lưu thủy Muôn việc nước trôi nước
Bách niên tam ngữ tâm Trăm
năm long như long
Ỷ lan hoành ngọc địch Tựa
hiên, nâng sáo ngọc
Minh nguyệt mãn hung khâm Đầy
nhựa ánh trăng trong
(Trần
Nhân Tông)
20. NGƯ NHÀN
Vạn lý thanh giang vạn lý thiên Vạn dặm sông xanh ,
trời vạn dặm
Nhất thôn tang giá nhất thôn yên Từng miền dâu ruối, khói quanh miền
Ngư ông thụy trước vô nhân hoán Ông chài ngon giấc không
ai gọi
Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền Tỉnh dậy sau trưa, tuyết ngậm thuyền
( Không Lộ)
21. HOA ĐIỆP
Xuân lai hoa điệp thiện tri thì Xuân sang hao bướm khéo quen thì
Hoa điệp ưng tu công ứng kỳ Bướm liệng hoa cười vẫn đúng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn Nên biết bướm
hoa đều huyễn ảo
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì Thấy hoa, mặc bướm, để lòng chi!
(
Giác Hải)
22. SẮC THÂN DỮ
DIỆU THỂ
Địa thủy hỏa phong thức Đất
nước lửa gió thức
Nguyên lai nhất thiết không Hết
thảy vốn đều “không”
Như vân tụ tán Mây tụ rồi tan đấy
Phật phật vô cùng Lòng
phật sáng vô cùng
( Đạo Huệ)
23. PHỎNG TĂNG
ĐIỀN ĐẠI SỰ
Bất yếu chu môn , bất yếu lâm Nào
phải rừng xanh hay cửa tía
Đáo đầu hà xứ an tâm Cuối
cùng đâu chẳn chốn yênlòng
Nhân gian tận kiến thiên sơn hiểu Người đời chỉ thấy nghìn non sóng
Thùy thính cô vân đề xứ thâm? Tiếng vượn rừng sâu
ai biết không
(
Tuệ Trung)
24. NGẪU TÁC
Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên Giữa
nhà không nói, chỉ ngồi yên
Nhàn khán côn Luân nhất lũ yên Nhàn ngắm côn luân sợi khói lên
Tự thị quyện thời tâm tự thức Lúc
mệt mỏi rồi tâm tự tắt
Bất quan nhiếp niệm bất quan thiền Cần
chi niêm phật với cầu thiền
( Tuệ Trung)
25. ĐỀ ĐỘNG HUYỀN THIÊN
Mây che mờ mịt Huyền thiên động
Khói tỏa long lanh điện
ngọc hoàng
Tiếng kê câu kinh sao
vắng vẻ
Chim bay tan tác vụng
ngàn hoa
( Trần Thánh Tông)
26. CUNG VIÊN XUÂN NHẬT ỨC CỰU
“ Cửa ngõ lờ mờ dấu bụi rêu
Chìm chìm ngày bạc vẻ đìu hiu
Đầy vườn rực rỡ hồng chen tía
Hoa khóe vì ai vẫn nở nhiều”
( Trần Thánh Tông)
27. VẬN NƯỚC
Bời bời vận nước quấn mây Kiểu đất long
xà chọn được nơi
Trời Nam
mở lượng đó đây thái bình Tình quê lai láng chẳng hề vơi
Thiền tâm thấm tận triều đình Có khi xông thẳng
đầu non vắng
Thi nhân gian dứt đao binh đời đời
Một tiếng kêu vang lạnh cả trời
( Mãn
giác thiền Sư)
28. NHẬT NGUYỆT I
"Đản tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu".
(Sống ngày nay biết ngày nay
Còn xuân thu trước ai hay làm gì).
29. XUÂN MUỘN
Tuổi trẻ sao từng hiểu sắc không
Cả xuân hoa nở ngất ngây lòng
Đến nay đành rõ mặt xuân ấy
Nệm cỏ giường thiền ngắm rụng hồng
(Trần Nhân Tông )
30. CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ
Sạch giới lòng, dồi giới tướng
Nội ngoại nên Bồ Tát trang nghiêm
Ngay thờ Chúa, thảo thờ cha
Đi đỗ mới trượng phu trung hiếu”
( Hội thứ sáu)
31. NHÂM DẦN LỤC NGUYỆT TÁC
Niên lai hạ hạn hựu thu lâm, Năm nay hạ hạn lại thu mưa,
Hoà cảo miêu thương hại chuyển thâm. Đau nỗi mùa màng, những thiệt thua.
Tam vạn quyển thư vô dụng xứ, Ba vạn sách đầy đành xếp xó,
Bạch đầu không phụ ái dân tâm. Yêu dân còn nợ, mái đầu phơ.
32. ĐỪNG ĐI THEO BƯỚC
NHƯ LAI
Còn ham thì hãy làm thinh
Trải vô sinh luận vô sinh kiếp người
Làm trai chí cả tung trời
Đừng lao theo vết chân thời Như Lai
33.TỨC CẢNH NGÀY XUÂN
Thêu gấm thưa tay dáng mỹ nhân ( Nhị bát giai nhân thích tú trì
Líu lo oanh hót, khóm hoa gần Tử
kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Đáng thương vô hạn, thương xuân ý Khả
liên vô hạn thương xuân ý
Chỉ tại dừng kim, chẳng mở lời Tận
tại đình châm bất ngữ thì.)
( Huyền Quang, tổ thứ ba của
thiền phái Trúc Lâm Yên Tử , đời Trần)
34. MẠN HỨNG Ở SƠN PHÒNG
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm Danh lợi tâm tùy dạ vũ
hàn Lòng danh lợi lạnh theo
trận mưa đêm
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch
mịch Nhất thanh đề điểu hạ xuân tàn. Một tiếng chim kêu lại cảnh xuân tàn.
35. LẠNG CHÂU VÃN CẢNH
Cổ tự thê lương thu ái ngoại Ngôi chùa cổ
lạnh lẽo sau lớp khói mùa thu
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ Thuyền câu hiu quạnh chuông chùa bắt đầu
Thuỷ tinh sơn tĩnh bạch âu quá Nước trong núi lặng, chim âu trắng bay qua
Phong định vân nhàn hồng thụ sơ. Gió
im mây nhởn nhơ, cây lơ thơ lá đỏ.
36.THIÊN TRƯỜNG VÃN VỌNG
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên. Thôn trước thôn
sau mờ mờ như khói phủ
Bán vô bán hữu tịch dương biên Cảnh vật trong bóng chiều
nửa có nửa không
Mục đồng địch lý quy ngưu tận Mục đồng cất tiếng sáo lùa trâu về
Bạch lộ song song phi hạ điền. Cò trắng từng đôi là là xuống đồng.
37. THỊ CHƯ THIỀN LÃO THAM VẤN THIỀN CHỈ
Bát nhã chân vô tông Bát nhã chả thuộc tông
nào
Nhân không ngã diệc không Lối người không lối ta vào cũng không
Quá, hiện, vị lai Phật Phật thời quá, hiện, mai, đồng
Pháp tính bản tương đồng Bao la một trái tim hồng cổ kim
( Lý Thái Tông)
38. THÂN TÂM
Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch Thân và tâm vốn lặng
không
Thần thông biến hoá hiện chư tướng Mà sao biến hoá thần thông lạ kỳ
Hữu vi, vô vi tùng thử xuất Sinh vô vi lẫn hữu vi
Hà sa thế giới bất khả lượng Vô
vàn thế giới lấy gì đếm đong
Tuy nhiên biến mãn hư không giới Tuy
đầy khắp cõi hư không
Nhất nhất quán lại một hình trạng Xem
ra chẳng thấy hình dong thế nào
Thiên cổ, vạn cổ nan tỷ huống Muôn đời so sánh được sao
Giới giới, xứ xứ thường lãng lãng. Nơi nơi chốn chốn sáng bao nhiêu trời
(Thiền Sư CỨU CHỈ
)
39. THỊ TỊCH
Diệu tính hư vô bất khả phan, Rỗng không diệu tính khó vời
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan Khi lòng rỗng mới hiểu đời rỗng không
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận Ngọc thiêu trên núi càng trong
Liên phát lô trung thấp vị can. Hoa
sen giữa lửa sắc hồng vẫn tươi
( Thiền Sư Ngộ Ấn)
40. THỊ TỊCH KỆ
Sinh lão bệnh tử Sinh, già, bệnh, chết… thế thôi
Tự cổ thường nhiên Xưa nay vẫn vậy lẽ đời tự nhiên
Dục cầu xuất ly Cầu cho siêu thoát về tiên
Giải phược thiêm triền Càng cầu càng trói buộc thêm phận người
Mê chi cầu Phật Vì lầm cầu Phật … thế thôi
Hoặc chi cầu Thiền Cầu Thiền bởi trót mê lời u mê
Thiền Phật bất cầu Cầu Thiền cầu Phật mà chi
Đỗ khẩu vô nghiên (ngôn) Ngồi im chả nói năng gì là
hơn
( Ni sư Diệu Nhân)
44. HỮU KHÔNG
Tạc hữu trần sa hữu Có thì có tự mảy may
Vi không nhất thiết không Không thì cả thế gian này cũng không
Hữu, không như thuỷ nguyệt Kìa xem bóng nguyệt lòng sông
Vật trước hữu không không Ai hay không có, có không là
gì? .
( Thiền Sư Từ Lộ)
45. NGÔN HOÀI
Trạch đắc long xà địa khả cư Đất
long xà chọn được đây
Dã tình chung nhật lạc vô dư Tình
vui thôn dã suốt ngày miên man
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh Đôi
khi thượng đỉnh núi hoang
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư. Buông dài một tiếng hú vang lạnh trời
( Thiền Sư Không Lộ )
46. Lao sinh hưu vấn sắc
kiêm không Hoài công hỏi sắc với không
Học đạo vô qua phỏng tổ tông Chi
bằng hỏi tổ hỏi tông đạo nhà
Thiên ngoại mịch tâm nan địch thể Tìm
tâm đâu ở ngoài ta
Nhân gian thực quế khởi thành tùng Quế
trồng dưới ruộng thật là phí công
Càn khôn tận thị mao đầu thượng Càn
khôn treo ngọn sợi lông
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung Chứa
trong hạt cải mênh mông đất trời
Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ Lớn lao một nắm tay thôi
Thuỳ tri phàm thánh dữ tây đông. Đông,
tây, phàm, thánh xa xôi sá gì
(Tăng Thống KHÁNH HỶ - Đáp Pháp Dung Sắc Không Phàm Thánh Chi Vấn)
47. Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm Thầm
nghe tiếng ngọc cất lên
Cá trung mãn mục lộ thiền tâm Rõ
ràng trong ngọc lẽ thiền hiện ra
Hà sa cảnh thị Bồ Đề đạo Toàn
là cảnh Phật quanh ta
Nghĩ hướng Bồ Đề cách vạn tầm Nhọc công tìm kiếm lại xa vô cùng
(Kiều Trí huyền - Đáp Từ Đạo Hành Chân Tâm Chi
Vấn)
48. Ly tịch
phương ngôn tịch diệt khứ Còn ham thì hãy làm thinh
Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh Trải
vô sinh luận vô sinh kiếp người
Nam nhi tự hữu xung thiên chí Làm
trai chí cả tung trời
Hữu hương Như Lai hành xứ hành. Đừng lao theo vết chân thời Như Lai
(Thiền Sư Quảng Nghiêm - Hữu Hướng
Như Lai)
49. Tùng phong thuỷ
nguyệt minh Gió
cành tùng trăng đầy sông
Vô ảnh diệc vô hình Như không có bóng như không có hình
Sắc thân giá cá thị Sắc thân như thể duyên sinh
Không không tầm hưởng thanh. Như tìm tiếng vọng vô thanh giữa trời
( Thiền sư minh trí - Tầm Hưởng)
50. Tại thế vi nhân thân Tấm thân chìm nổi trần ai
Tâm vi Như Lai tạng Tâm là kho báu Như Lai giữa đời
Chiếu diệu thả vô phương Ánh tâm toả sáng nơi nơi
Tầm chi cánh tuyệt khoáng. Đi tìm tâm chỉ xa khơi mịt mờ
(Thiền Sư Thường Chiếu – Tâm)
51. Phong đả tùng quan
nguyệt chiếu đình Gió
sân trăng gõ cành tùng
Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh Lòng
theo cảnh sáng trong cùng cỏ cây
Cá trung tư vị vô nhân thức Bao
nhiêu thú vị ai hay
Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh Sư
trong núi cũng vui vầy sáng đêm
(Trần Thái Tông - Ký Thanh Phong Am
Tăng Đức Sơn)
52. Sơ cấu cùng
thu thuỷ Nước thu in bóng núi gầy
Sàm nham lạc chiếu trung Nước
thu in bóng núi gầy
Ngang đầu khan bất tận Đỉnh
cao chót vót gió lay ánh tà
Lai lộ hựu trùng trùng. Ngước
nhìn mây núi bao la
(Pháp Loa -
Nhập Tục Luyến Thanh Sơn)
53. Gió sân trăng gõ cành
tùng
Lòng theo cảnh sáng trong
cùng cỏ cây
Bao nhiêu thú vị ai hay
Sư trong núi cũng vui vầy
sáng đêm
(Gửi Nhà Sư Đức Sơn Am Thanh Phong)
54. “Tứ sơn
liễu bích vạn thanh tùng
Bích liễu đô vô,
vạn vật không
Hỉ đắc lư nhi
tam cước tại
Mịch kỳ đả sấn
thướng cao phong”
(Trần Thái Tông – Tứ sơn kệ)
55.HÓA VẬN
Chân thân thành vạn tượng
Chân thân biến hóa thành muôn vàn hiện tượng
Vạn tượng tức chân thân Muôn vàn hiện tượng cũng là chân thân ư
Nguyệt điện minh đan quế
Như cung trăng làm cho cây quế đỏ tươi tốt
Đan quế tại nhất luân Nhưng cây quế
vẫn ở giữa cung trăng ( Nguyễn Y Sơn)
56.ĐỊA LÔ TỨC SỰ
Ổi dư cốt đột tuyệt phần hương Củi đã tàn
cũng chẳng thắp hương
Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương Miệng trả lời chú bé con trong núi
hỏi về Thủ bả suy thương hòa thái thác những chương sách
ngắn
Đồ giao nhân tiếu lão tăng mang
Tay cầm ống
thổi, tay nhặt mo nang
Luống để người ta cười ông sư già này bận bịu
( Huyền
Quang)
57.PHỔ THUYẾT HƯỚNG THƯỢNG NHẤT LỘ
Xứ xứ lục dương kham hệ mã Nơi nơi dương
liễu xanh có thể buộc ngựa
Gia gia hữu lộ đáo Trường An Nhà nhà đều
có con đường đi đến Trường An
Hồi trình nguyệt hạ nhân hi đáo Đường về với
bóng trăng ít người đến
Nhất đạo thiềm quang đại địa hà Một vệt ánh
sáng trăng, cả mặt đất lạnh lẽo
( Trần Thái Tông)
58.THỦ NÊ NGƯU
Nhất thân độc thủ nhất nê Một mình riêng giữ con trâu đất
Đằng tị khiên lai vị khẳng hưu Xỏ mũi dắt về
chưa từng chịu nghỉ
Tương đáo Tào Khê đô phóng hạ Đem đến Tào
Khê thì thả ra
Mang mang thủy cấp đả viên cầu Mênh mông
nước chảy cuốn quả bầu tròn
( Tuệ Trung)
59. SINH LÃO BỆNH TỬ ( Diệu Nhân)
Mê chi câu Phật
Mê muội cầu Phật
Hoặc chi câu thiền Nhầm lẫn cầu
thiền
Thiền phật bất cầu Thiền phật
chẳng cầu
Đổ khẩu vô nghiên Mỉm miệng
lặng yên
60.KÝ PHỔ
Dã bất tạo ác Cũng chẳng
gây ác
Dã bất tu thiện Cũng chẳng
làm lành
Thụy lại đả miên Buồn ngủ thì ngủ
Cơ lai khiết phạn Đói bụng thì
ăn
Tòng thu nhiễu nhiễu Tùy nó nhiễu
nhương
Nhậm nhĩ nhân phân Mặc bay bề
bộn
Nghiên lai y cựu Xưa nay vẫn vậy
Thái vũ chủ nhân Là chủ càn
khôn
( Tuệ Tôn Giả)
61. ĐỘC PHẬT SỰ ĐẠI MINH LỤC HỮU CẢM
Tứ thập niên dư nhất phiến thân Hơn bốn mươi
năm luyện thành một tấm lòng
Lao quan khiêu xuất vạn trình
quynh Đã nhảy ra
khỏi hàng vạn tàng cửa tù ngục
Động như không cốc phong xao hưởng Đông thì như
tiếng gió vang trong hang trống
Tỉnh nhược hàn đàm nguyệt lâu
minh Tỉnh thì tựa
ánh trăng lọt xuống đầm lạnh
Cú lý ngũ huyền thân thấu đắc Tự mình đã
thấu được nghĩa lí của ngũ huyền
Lộ đầu thập tự nhậm tung hoành Mặc sức tung
hoành trên con đường bốn ng
Hữu nhân vấn ngã hà tiêu tức Có người hỏi ta sinh diệt
là thế nào
Vân tại thanh thiên thủy tại bình Như mây trời xanh và nước trong
bình.
THƠ HAI CƯ
1- Trên cành khô 2- Ðất khách mười mùa sương
quạ đậu
về thăm quê nghoảnh lại
chiều thu Ê-đô là cố hương
(Matsuo Basho)
3- Mưa xuân lất phất rơi 4- Vượn hú não nề
Vừa đi vừa
thủ thỉ
Hay trẻ bị bỏ rơi than khóc ?
Ô và áo
tơi(Yosa Buson)
gió mùa thu tái tê
(Matsuo Basho)
5. Mưa đông giăng đầy trời 6- Mặt trời đỏ cuối hè
và “Người lữ
khách”
vô tâm tỏa ánh nắng
sẽ là tên tôi ( Matsuo Basho) gió heo may đã về
(Matsuo Basho)
7. Mùa xuân qua đi 8. Lều bán cá đông về
Sao cứ nhớ mãi hàm răng cá hồng muối
người cũ ở Ô-mi cũng lạnh tê
(Matsuo
Basho)
9- Ðặt chân vào vách 10 - Mùa thu đang tới gần
gởi lòng mình
trở lại
hơi mùa thu lành lạnh
phòng rộng
vài bước chân lan
vào giấc ngủ trưa
(Matsuo
Basho)
11- Mùa thu năm nay 12- Con đường tôi đi
sao mình già
nhanh thế
không còn ai điếu nữa
cánh chim
khuất trong mây
chiều tàn mùa thu
(Matsuo
Basho)
13- Rì rào rì rào 14- Hoa mẫu đơn rã rời
tiếng hoa dã
quỳ rụng không rụng ào ạt
hay tiếng
thác trên cao
từng hai ba cánh thôi
(Matsuo
Basho)
(Yosa Buson)
15- Từ đám mây hoa 16- Ôi! Hoa triêu nhan
tiếng chuông vọng lại Tay quấn vào gầu nước
chùa U-ê-nô
hay A-sa-ku-sa? Đành sang
giếng nhà bên
(Matsuo Basho) (Kagano Chiyojo)
17- Ở cố đô Nại Lương 18- Bên vệ đường
hoa cúc và
tượng Phật cổ hoa tầm xuân
nở
ngạt ngào
hương như
đường quê hương
(Matsuo Basho) (Yosa Buson)
19- Bên vệ đường 20- Ðêm đen
bìm bìm hoa
tím hoa mơ nở
trắng
ngựa ăn
mất! bình
minh lên
(Matsuo Basho) (Yosa Buson)
21- Chung một mái trọ 22- Tuyết tan rồi
những du nữ
ngủ tròn xoe
láng bóng
trăng và hoa
thu ông trăng
trên trời
(Matsuo Basho) (Kagano Chiyojo)
23- Trăng mùa hè 24- Dưới ánh trăng kìa
chiếu lên sóng không bụi đêm vẫn còn bán nước
dòng Sông
Trong phố
Ni-hôn-ba-shi
(Matsuo Basho) (Kobayashi
Issa)
25- Biển hoang sơ 26- Sương mù bao phủ
sông ngân vắt
ngang trời Fuji chìm khuất rồi
tuôn xuống
đảo Sa-đô núi hiện hình
trong tôi
(Matsuo
Basho)
27- Trên sườn núi bất ngờ 28-
Lang thang đồng nội
mặt trời mộc
rực rỡ để cho mưa gió
trong hương
hoa mơ thấm vào hồn tôi
(Matsuo Basho)
29- Băng qua cánh đồng chiều 30- Mùa xuân lên đường
ghìm cương
quay đầu ngựa mắt cá đẫm lệ
nghe tiếng
quyên kêu chim chóc
khóc thương
(Matsuo Basho)
31- Trên chuông chùa 32- Chim tử quy kêu
một cánh bướn
nhỏ cuộc đời
phiền muộn
ngủ im
lìm
tan vào cô liêu
(Yosa Buson) (Matsuo
Basho)
33- Ðêm trăng hè 34- Hơi nóng bốc không trung
tiếng chim đỗ
vũ Loài sâu lạ
lọt vào răng
tre Bay ra trắng
đồng
(Matsuo Basho) (Yosa Buson)
35-Tránh ra đi, tránh ra 36- Chú ếch đồng
Chú sẻ
nhỏ Ngắm nhìn đỉnh núi
Vó ngựa sẽ
phóng qua Dáng điệu thung dung
(Kobayashi Issa)
37- Ðừng đánh, dừng đi thôi! 38
- Chim đỗ quyên hót
Chú ruồi đang
xoay tay rối rít ở Kinh đô
Và xoay chân
như người mà nhớ Kinh đô
(Kobayashi Issa) (Matsuo Basho)
39 - Tiếng chim oanh 40 - Biển hoàng hôn
từ bụi tre
lạnh giá vang
lên tiếng vịt
đưa đến hàng
liễu xanh trắng mờ
(Matsuo Basho)
41-Ta
bà một nỗi đau 42- Những chiếc lá rơi
cho dù mùa xuân đó dường như trăm tuổi
đang nở những hoa
đào giữa ngôi vườn chùa
(Kobayashi Issa) (Matsuo Basho)
43
-Xem kìa bé ơi 44 -Chống gậy đưa chân
hãy chạy nhanh đến những gia đình bạc tóc
mưa đá đang rơi đi viếng mộ người thân
(Matsuo Basho)
45-
Kêu chi nhạn ơi 46- Nửa đêm thăm thẳm
đi đâu cũng thế dòng sông Ngân hà
cõi phù thế thôi rời đổi chỗ nằm
(Kobayashi
Issa)
(Ranretsu)
47-
Nằm bệnh giữa cuộc lãng du 48-
Năm dặm mỗi ngày
mộng hồn còn phiêu
bạt ta đi tìm em đây
những cánh đồng hoang
vu hoa đào yêu dấu ơi
(Matsuo
Basho)
49- Rừng trúc mênh mông 50- Mùa thu ở Kiô
tiếng chim cu hót người tiễn đưa ta
trong ánh trăng
nghiêng ta tiễn đưa người
(Matsuo
Basho)
51-
Ðất khách mười mùa sương 52- Hoa xuân nở tràn
Về thăm quê
ngoảnh lại Bên cầu du nữ
Êđo là cố
hương Mua sắm đai lưng
(Matsuo Basho) (Yosa Buson)
53 - Gần xa đâu đây 54- Ao cũ
Nghe tiếng thác chảy Con ếch nhảy vào
Lá non tràn đày Vang tiếng nước xao
(Yosa Buson) (Matsuo Basho)
55-Trăng
rụng rồi 56-Cây
chuối trong gió thu
bốn góc bàn quen
thuộc Tiếng mưa rơi tí tách vào chậu
còn lại mà thôi Ta nghe tiếng đêm
(Matsuo Basho)
57-
Từ bốn phương trời 58-
Bên dòng Sumida
hoa anh đào rụng xuống
Chú chuột kia uống nước
gợn sóng hồ Bi-oa
Mưa
mùa xuân pha
(Matsuo Basho) (Kobayashi Issa)
59 -Ôi chim
cu 60-Trăng thu
Bay lượn và ca hát
Suốt đêm tôi dạo
Bận rộn xiết bao
Loanh quanh bên hồ