Thứ Tư, 21 tháng 8, 2013

VÌ SAO BÚT CHÌ CÓ TẨY?

                       VÌ SAO BÚT CHÌ CÓ TẨY?
       Có người hỏi: vì sao bút chì có tẩy? Chẳng phải câu trả lời đã quá rõ ràng rồi sao: để xóa đi những chữ viết sai, viết chưa đẹp hoặc để xóa hoàn toàn một đoạn văn nào đó! Vậy có bao giờ bạn tự hỏi mình: phải chăng trong cuộc sống này, chúng ta cũng cần có một cục tẩy cho riêng mình? Để xóa đi những sai lầm của người khác và của chính bản thân ta! Có lúc chúng ta keo kiệt, không dùng đến cục tẩy đó khiến cho những trang giấy cuộc đời nhem nhuốc những dòng gạch và xóa!

Bất cứ ai cũng có lúc gặp sai lầm, bất cứ ai cũng gây ra những lỗi lầm khắc sâu trong lòng người khác! Có người ghi nhớ để rồi mãi mãi khắc khoải vì vết thương đó! Có người để nó bị thời gian xóa đi, trống trơn phẳng lặng để viết lên những bài viết cuộc đời đặc sắc hơn, ý nghĩa hơn!
Người ta nói rằng cuộc đời là một trang giấy trắng, và chính chúng ta sẽ quyết định viết nó như thế nào! Khi một đứa trẻ mới vào lớp  một, cô giáo không cho chúng viết bằng bút bi mà viết bằng bút chì! Bởi vì sao bạn nhỉ? Vì bàn tay yếu ớt của các bé nhất đính ẽ có lúc viết những nét nghuệch ngoặc, sai từ này từ khác! Và khi đó, bé sẽ dùng tẩy để tẩy đi những chữ viết chưa đúng, chưa đẹp của mình! Chúng ta cũng vậy, không ai sinh ra đã có thể viết lên những bài ca cuộc đời một cách  hoàn chỉnh! Có lúc chúng ta vì vội vã mà đi sai phương hướng dẫn đến những hậu quả khôn lường, có lúc vì chủ quan mà mắc sai lầm không thể sửa chữa! Làm thế nào đây? Ngồi trách móc bản thân và hứng chịu những lời trách móc của người khác? Như vậy có giải quyết được gì không?
Lúc ấy chúng ta cần biết tẩy đi những sai lầm mắc phải và làm lại từ đầu với những bước đi thận trọng hơn! Không ai có thể trưởng thành mà chưa một lầm vấp ngã hay mắc sai lầm!
Mỗi em bé trước khi biết đi cũng trãi qua quá trình chập chững với không ít lần vấp ngã! Đừng tự trách bản thân mình quá nhiều bạn ạ! Cũng như đừng trách móc những người khác khiến họ cảm thấy mình kém cỏi mà mất hết niềm tin vào chính bản thân họ! Hãy biết chấp nhận sai lầm như một điều tự nhiên trong cuộc sống để đối mặt với sai lầm và thất bạ một cách nhẹ nhàng hơn! Bạn biết đấy, cục tẩy sinh ra để xóa đi những chữ viết chưa được tròn trịa, chưa được chính xác thì chúng ta cũng hãy dùng cục tẩy của mình – sự bao dung và thứ tha để tẩy đi những sai lầm của mình và người khác mắc phải!
Đừng quá khắt khe với người khác, cũng đừng chỉ nhìn vào những sai lầm của họ mà đánh giá con người họ! Bất kỳ ai cũng có lúc mắc phải sai lầm quan trọng là họ biết mình sai để sửa, còn chúng ta đừng chỉ biết nhìn vào những sai lầm đó mà hãy nghĩ đến những gì họ đã cố gắng, đã nỗ lực để làm tốt công việc của mình!
Có câu chuyện về chiếc bánh bị cháy, bạn đã nghe bao giờ chưa nhỉ? Một người phụ nữ phải làm việc 8h/ngày lại còn chăm sóc gia đình và làm hết mọi công việc của một người nội trợ! Một ngày nọ cô mệt nhoài với hàng tá công việc ở cơ quan khiến cô có cảm giác như kiệt sức! Về nhà cô còn phải dọn dẹp nhà cửa và nấu ăn cho chồng và con của cô! Khi người chồng đón con từ trường về, cũng là lúc cho nướng xong mẻ bánh quy trong lò! Thế nhưng vì quá mệt nên cô đã để quên nó một lúc khiến cho một vài chiếc bị cháy!
Lúc ăn tối, đứa con quan sát xem có ai nói gì về những chiếc bánh cháy đó không nhưng chẳng có ai lên tiếng cả! Khi dọn bắt đĩa, người vợ ngỏ ý xin lỗi về những chiếc bánh cháy nhưng người chồng dịu dàng nói: có gì mà em phải xin lỗi chứ, hơn nữa mùi vị nhưng chiếc bánh ấy rất ngon! Người vợ mỉm cười hạnh phúc!
Khi đưa con đi ngủ, nó thì thầm hỏi bố nó: có thật bố thích ăn bánh quy cháy không? Không con ạh, anh ta nói với con! Nhưng hôm nay mẹ con rất mệt mà vẫn phải chuẩn bị bữa ăn cho bố con chúng ta! Không nên làm mẹ buồn mà một vài chiếc bánh cháy có ảnh hưởng đến ai đâu chứ!
Thế đấy, có bao nhiêu người không để ý đến một vài chiếc bánh cháy trên đĩa bánh? Không nhiều lắm phải không bạn! Cũng như vết mực đen trên tờ giấy trắng! Có lúc chúng ta chỉ biết nhìn vào những sai lầm, khuyết điểm của người khác để rồi lên tiếng chỉ trích mà quên rằng họ đã cố gắng rất nhiều!
Hãy sống bao dung hơn bạn nhé, để cục tẩy của bạn mòn dần theo năm tháng, đừng bao giờ để cực tẩy của bạn mãi mãi như mới xuất xưởng! Bởi vì nếu không sử dụng đến nó cuộc đời của chúng ta sẽ chi chít những vết gạch xóa sau những lần mắc sai lầm! Một tờ giấy như vậy có đẹp đẽ gì không bạn? Hãy để nó là một tờ giấy được viết nên bởi những trãi nghiệm, những thử thách, quyết tâm và cả sự tha thứ và bao dung nữa, bạn nhé!

 Sưu tầm

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

SỰ KỲ DIỆU CỦA NGÔN NGỮ THƠ VIỆT NAM

        SỰ KỲ DIỆU CỦA NGÔN NGỮ THƠ VIỆT NAM
"Nếu như “giai điệu”, “âm thanh” là ngôn ngữ của âm nhạc; “màu sắc”, “đường nét” là ngôn ngữ của hội họa; “mảng, khối” là ngôn ngữ của kiến trúc, thì “ngôn từ” là chất liệu của tác phẩm văn học". Hình tượng văn học là hình tượng ngôn ngữ. Nhà văn Nga Macxim Gorki từng nói : “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Quả thật như vậy, ngôn ngữ giữ một vị trí đặc biệt trong quan trọng văn học đặc bệt là trong thơ ca, đó là tiếng nói chân thực, giàu có của đời sống hiện thực, vừa là tiếng nói bay bổng của trí tưởng tượng diệu kì, lại vừa là tiếng nói tiếng nói tình cảm của con tim đang xúc động. Chiều sâu của sức suy nghĩ, tính chất mẫn cảm và tinh tế của sức sáng tạo trong những trạng thái rung động của tâm hồn.. Tất cả chỉ có thể đến được với người đọc thông qua vai trò của ngôn ngữ. Sự tổ chức ngôn ngữ trên cơ sở của hệ thống nhịp điệu, tính chất tối đa về nghĩa trên một diện tích ngôn ngữ hẹp nhất, sắc thái chủ quan của người viết trong mức độ cần thiết đã tạo cho ngôn ngữ thơ ca những phẩm chất đặc biệt. Hơn một phạm vi nào hết, quy luật về mối quan hệ gắn bó giữa nội dung và hình thức được thể hiện ở đây một cách tinh tế nhất thông qua những hình thái thâm nhập và chuyển hóa. Ở đó ngôn ngữ thơ ca biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc, mĩ lệ, phong phú của ngôn ngữ. Nói như nhà thơ Nga, Maia côpxki cho rằng: “quá trình sáng tạo ngôn ngữ thơ ca cũng giống như người lọc quặng ra đi um, lọc lấy tinh chất, tìm ra trong những cái bộn bề của những tấn quặng từ đẹp, ánh sáng kim cương”. “Thi ca là tinh hoa tối cao của ngôn ngữ, cái ánh ngời phi thường của nó, chỗ rách cảm động nhất của nó”. (Piere Gamarra)
Chính vì thế, tiếp nhận một bài thơ hay không dễ gì ta cảm nhận được ngay, có khi chỉ bằng linh cảm mà nhận ra. Đọc rồi, đọc nữa, suy ngẫm, liên tưởng ta mới nhận ra thứ ánh sáng, màu sắc, hương thơm man mát bên trong hình tượng ngôn ngữ thơ. Chẳng thế mà nhà thơ Hoàng Đức Lương (thế kỉ XV) đã có một nhận xét xác đáng : Thơ là sắc đẹp ở ngoài sắc, vị ngọt ở ngoài vị, không thể trông bằng mắt thường được, chỉ có thi nhân trông thì mới thấy đẹp, nếm mới thấy ngon...
Trong kho tàng ngôn ngữ vô cùng phong phú của toàn dân, nhà thơ chỉ lựa chọn những từ ngữ cần thiết nhất để đưa vào tác phẩm. Đó là quá trình khổ luyện, tìm tòi, tích lũy vốn sống... mới có được những chữ “thần” để có thể “lóe sáng” ở câu thơ, làm cho bài thơ “nổi gió”, “cất cánh”. Do vậy ngôn ngữ thơ rất gợi hình, gợi cảm góp phần tạo nên tính họa, tính nhạc trong thơ. Nó biến hóa qua nhiều sắc thái ảo thực bất ngờ, thú vị
Đến với  Tây Tiến (Quang Dũng), chúng ta cảm nhận được những nét tinh tế trong cách diễn đạt ngôn ngữ của tác giả. Khúc dạo đầu trong Tây Tiến là nỗi nhớ “chơi vơi”, vừa xa xăm, sâu lắng, vừa thiết tha, quyến luyến
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Sau khúc dạo đầu ấy là tất cả những kỉ niệm thời Tây Tiến được hiện về trong những nỗi nhớ nên mang màu sắc lung linh, đẹp lạ kì. Kí ức này chi phối việc lựa chọn phối thanh, phối màu trong bức tranh Tây Tiến. Kỉ niệm của một thời chinh chiến với dòng sông Mã yêu thương và khoảng trời miền Tây theo thời gian cứ lần lượt hiện về. Kỉ niệm đầu tiên là hình ảnh
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Ngôn ngữ trong câu thơ có sức tạo hình lớn. Chỉ vài nét chấm phá, Quang Dũng  cho ta tưởng tượng ra những cảnh người chiến binh phải ra đi giữa mù sương dày đặc, thăm thẳm lạnh lẽo. Sương dày bủa vây như lấp cả đoàn quân. Đoàn quân cứ đi, đêm nối đêm, ngày nối ngày, dãi dầu trong những khó khăn gian khổ
Dốc lên khúc khuỷu dóc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Qua bốn câu thơ trên,ta thấy Quang Dũng đã vẽ được một bức tranh hiểm trở, dữ dội, khúc khuỷu của núi rừng Tây Bắc. Hàng loạt những từ ngữ giàu tính tạo hình được huy động: khúc khuỷu,thăm thẳm, heo hút, súng ngửi trời,…đã diễn tả được cái dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Đọc những câu thơ này, người đọc như thấy hiện ra trước mắt mình những ngọn dốc vừa khúc khuỷu, vừa cao ngất trời lại vừa thăm thẳm. Núi cao như chọc thủng màn mây, những người lính vụt lên những đỉnh núi cao ngất, tưởng như súng ngủi trời. Từ “heo hút” vừa gợi ra độ cao của núi, vừa gợi ra độ sâu của dốc và cả cái vắng lặng, hoang vu đến rợn người. Nếu như hai câu đầu là cái nhìn lên thì đến câu thơ thứ ba, Quang Dũng diễn tả cái nhìn xuống. “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Nhìn lên, núi cao chót vót, nhìn xuống, dốc sâu thăm thẳm. Bút pháp tương phản và và nét vẽ gân guốc đã làm nổi bật tính tạo hình. Nhưng xen vào những nét vẽ gân guốc ấy là những nét vẽ rất mềm mại, như xoa dịu cả cả khổ thơ: “Nhà ai pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ cho ta hình dung ra cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, họ phóng tầm mắt nhìn ra xa. Qua mịt mù lớp sương rừng mưa núi, họ thấy thấp thoáng những ngôi nhà như bồng bềnh trôi giữa biển khơi.
 Đoạn thơ trên còn đậm chất nhạc. Chất nhạc được tạo ra bởi những âm hưởng đặc biệt, chất nhạc đã góp phần làm tăng thêm sự kì diệu của ngôn ngữ thơ. Hai câu thơ
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”.
Đậm thanh trắc: “dốc”, “khúc khuỷu”, “thẳm”, “hút”, “súng”, “ngửi”…như làm cho độ cao của núi, độ dốc của đèo, độ khúc khuỷu hiểm trở của con đường cứ tăng lên mãi. Những câu thơ trúc trắc khó đọc cũng như diễn tả sự khó khăn hiểm trở của núi rừng. Nhưng câu thơ thứ tư lại toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, nhịp thơ trầm xuống như xoa dịu những trúc trắc ở trên. Cách phối thanh đã đem đến hiệu quả rõ rệt cho lời thơ: người đọc cảm thấy được thư giãn sau những phút căng thẳng. Đoạn thơ kết thúc bằng một đường nét và âm điệu hết sức đầm ấm;
“Nhớ ôi tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nép xôi”
Những từ “ cơm lên khói”, “nếp xôi”, “mùa em” như vẽ ra trước mắt ta những bản làng, nơi có những nồi cơm đang bốc khói. Khói của cơm, hương thơm của lúa nếp ngày mùa khiến lòng chiến sĩ ấm lại, đó còn gợi lên sự sum họp gia đình. Hai câu thơ với thán từ “ôi” đã tạo nên một âm điệu êm dịu, tha thiết, ấm áp vô cùng.
Đoạn thơ thứ hai, Quang Dũng sử dụng những đường nét mềm mại và đặc biệt tinh tế. Qua nét vẽ tài hoa ấy, người đọc như bừng ngộ trước vẻ đẹp nên họa, nên thơ của núi rừng Tây Bắc. Hồn thơ Quang Dũng bị “hút” bởi sự lãng mạn đầy bí ẩn của con người nơi đây. Nhà thơ khao khát khám phá, tìm hiểu nó. Ấy là một đêm liên hoan văn nghệ dưới ánh đuốc bập bùng:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Với những nét vẽ khỏe khoắn mê say, Quang Dũng dẫn ta vào một đêm văn nghệ rất thực mà ngỡ như mơ: doanh trại bừng sáng dưới ánh lửa đuốc bập bùng. Trong ánh đuốc ấy, cảnh vật, con người hiện lên vừa thực, vừa ảo, tất cả như đều nhuốm men say ngay ngất. Những cô gái- những bông hoa của núi rừng Tây Bắc hiện ra đẹp lộng lẫy, vừa e thẹn, vừa tình tứ trong một vũ điệu đậm màu sắc phương xa. Trong vẻ đẹp rực rỡ của ánh đuốc, trong nét dìu dặt của tiếng khèn, gợi về khỏe khoắn, trẻ trung. Hai từ “kìa em”làm giọng điệu câu thơ như cũng ngỡ ngàng, vừa ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. Bốn câu thơ vừa chan chứa màu sắc, âm thanh, vừa ấm áp tình người
Từ nét vẽ và âm thanh khỏe khoắn trong đêm hội đuốc hoa, Quang Dũng đã chuyển sang nét vẽ tinh tế, mềm mại khi miêu tả chiều sương Châu Mộc
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Chỉ bằng một vài nét chấm phá đơn sơ nhưng tác giả đã gợi lên cái thần, cái hồn của cảnh vật. Đó là cái thần, cái hồn của lau “nẻo bến bờ”. Đó là dáng tạo hình của cô gái Thái giữa tràng giang sông nước, đó là cái “đong đưa” tình tứ của những bông hoa rừng…tất cả như khắc vào thiên nhiên Tây Bắc vẻ đẹp nên họa, nên thơ, khắc vào lòng người những kỉ niệm khó quên. Cái chất nhạc và chất họa trong ngôn ngữ thơ đã hòa quyện. Bốn câu thơ đầu ru ta trong nhạc điệu cất lên từ sự mê say của tâm hồn những người lính Tây Tiến. Bốn câu sau là những nét vẽ tài hoa gợi lên cái thần, cái hồn của tạo vật. Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng : “Đọc đoạn thơ này, ta như lạc vào thế giới của cái đẹp, của cõi mơ, của âm nhạc” và Xuân Diệu cũng có lí khi nói: “ Đọc Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm nhạc trong miệng”.
Sự kì diệu của ngôn ngữ thơ ta còn có thể thấy trong Đàn ghi ta của Lor- ca (Thanh Thảo). Thành công trước hết và cũng là ấn tượng đầu tiên của bài thơ là ở nhạc tính. Tính nhạc của câu thơ được tạo bởi nhiều yếu tố như sự phối vần, phối thanh, cách sử dụng những biện pháp trùng điệp, thể thơ… Trong đó nhịp điệu giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Bởi nói như nhà thơ lãng mạn Pháp Lamactin, “Thơ ca, ấy là tiếng hát bên trong”, là nhịp điệu của tâm hồn, của trái tim người nghệ sĩ. Chỉ có nắm bắt được nhịp điệu của tâm hồn, của trái tim người nghệ sĩ. Chỉ có nắm bắt được nhịp điệu thì mới có thể “chạm” được đến cái phần sâu nhất của hồn thơ. Đàn ghi ta của Lor- ca là bài thơ giàu nhạc tính, nhạc tính được tạo bởi nhiều yếu tố.
Trước hết đó là thể thơ, Thanh Thảo dùng thể thơ tự do với những trường đoạn và câu thơ dài ngắn linh hoạt, phóng túng. Tất cả được tạo bởi sự liên kết bên trong, đó là sự liên kết của cảm xú, suy tưởng và liên tưởng. Bài thơ mở ra bằng tiếng đàn:
Những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li- la li- la li- la
và kết thúc cũng bằng âm hưởng của tiếng đàn không bao giờ dứt:
li- la li- la li- la
có thể thấy, chính mạch liên tưởng hết sức phóng túng nhưng tất cả đều hướng về làm nổi bật tiếng đàn đã giúp những hình ảnh thơ gắn kết thành một thể hoàn chỉnh. Từ hình ảnh người nghệ sĩ với tấm áo choàng “đỏ gắt” đến “tiếng hát nghẻu ngao”; từ ánh mắt hướng về bầu trời có “ cô gái ấy” đến nỗi niềm “ lặng im bất chợt”…Và âm hưởng ấy tập trung khắc họa hình tượng người nghệ sĩ Tây Ban Nha với cuộc đời đầy bi kịch nhưng bất tử
nhạc tính còng thể hiện rất rõ ở cách sử dụng hình thức trùng điệp câu trúc câu. Đây là một đoạn thơ tiêu biểu
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta xanh biết mấy
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
hình tượng âm thanh của tiếng ghi ta láy đi láy lại như một nỗi ám ảnh. Nhịp thơ dường như cứ nương theo tiếng đàn, như một dòng chảy mãnh kiệt của của cảm xúc đầy hồi hộp và mê say; tiếng ghi ta nâu – tiếng ghi ta lá xanh – iếng ghi ta tròn- tiếng ghi ta ròng ròng ròng máu chảy… mở ra những trường liên tưởng độc đáo về một nghệ sĩ trong những phút giây bi kịch của cuộc đời nhưng vẫn không thể rời xa tiếng đàn. Đọc đoạn thơ này của Thanh Thảo ta bỗng nhớ đến đoạn thơ bay bổng của Huỳnh Thúc Liên
bay đi  xa đi xa
tiếng đàn ghi ta của Lor-ca
bay đi xa đi xa
Lời thơ tranh đấu Es- pa- nha
Vang vang trong tim ta
Tiếng đàn ghi ta của Lor- ca
Vang vang trong tim ta
Lời thơ tranh đấu Es- pa- nha
Nhạc tính còn thể hiện ở âm hưởng của tiếng đàn “ li-la li- la li- la” ở cuối bài.Nếu tiếng “li-la li-la li-la”ở phần đầu bài thơ gợi âm hưởng réo rắt của tiếng đàn thì âm thanh li- la kết thúc lại gợi lên một nỗi ám ảnh. Không chỉ ám ảnh bởi âm thanh mà là nỗi ấm ảnh về một số phận, một cuộc đời nghệ sĩ đầy tài hoa nhưng bi kịch. Có thể nói chất nhạc trong bài thơ được sử dụng hết sức thành công, nó không chỉ phù hợp với việc ngợi ca người nghệ sĩ gắn với cây đàn ghi ta mà còn tạo nên những dư âm, những vang ngân trong lòng người đọc. Và trên hết, chất nhạc ấy biểu hiện niềm tiếc thương đến thảng thốt của Thanh Thảo đối với người nghệ sĩ Tây Ban Nha vĩ đại.
Bên cạnh tính nhạc dồi dào, một trong những đặc sắc khác của bài thơ là sáng tạo hình ảnh. Là một nhà thơ ham tìm tòi và cách tân, Thanh Thảo đem lại cho thơ những cách nói mới giàu sức biểu hiện. Trong bài thơ, có những hình ảnh khá chân thật, gợi lại những sự kiện có thực trong cuộc đời của Lor- ca:
Áo choàng bê bết đỏ
Lor- ca bị điệu về bãi bắn
Chàng đi như người mộng du
Nhưng chủ yếu là những hình ảnh giàu chất tượng trưng, giàu sức biểu hiện, đặc biệt là hình ảnh tiếng đàn. Đó là “tiếng đàn bọt nước” đang theo hành trình của người nghệ sĩ để đi “lang thang về miền đơn độc”. Đó là “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy” đầy đau thương và bi thiết như tiếng đàn của nàng Kiều khi bị ép buộc đàn cho Hồ Tôn Hiến với “ Một cung gió thảm mưa sầu- Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!”. Đó là “tiếng đàn như cỏ mọc hoang”, không có gì có thể ngăn trở hay hay kìm hãm được sức sống mãnh liệt từ bên trong. “Tiếng đàn như cỏ mọc hoang” còn nói lên sự bất tử của nghệ thuật, nghệ thuật và trái tim của người nghệ sĩ chân chính sẽ là mãi mãi. Và nhất là tiếng đàn “li-la li-la li-la” tưởng như vang mãi bất tận trong trái tim người nghệ sĩ, trong tâm hồn người đọc.
Bên cạnh hình tượng tiếng đàn được cảm nhận và so sánh rất phong phú và độc đáo như thế, còn có những hình ảnh gợi nhiều suy tưởng. Vẫn nằm trong mạch suy ngẫm về sức sống bất tử của tiếng đàn và trái tim người nghệ sĩ, Thanh Thảo sáng tạo được những hình ảnh đột xuất bất ngờ:
Giọt nước mắt vầng trăng
Long lanh trong đáy giếng
Đó là hình ảnh vừa thực, tái hiện lại sự kiện Lor- ca bị phe phát xít giết hại trong thời gian đầu cuộc nội chiến, xác ông bị chúng quang xuống giếng, vừa gợi trường kiên tưởng: phải chăng tiếng đàn là chân dung tinh thần của Lor- ca macxit còn sáng “ long lanh”, không thể kẻ thù nào vùi dập được.
Thơ và ngôn ngữ thơ phải cô động, giàu sức biểu hiện. Sự tìm tòi công phu, cân nhắc kĩ lưỡng, chọn lọc có sáng tạo vẫn là nhiệm vụ thường xuyên có ý thức của nhà thơ với phương tiện phong phú và rất biến hóa. Trong trường ca Sông Mê Công bốn mặt, Anh Ngọc đã lồng truyện thần thoại làm cái thần, cái hứng của câu chuyện hiện đại.
“Tôi bế trên bàn tay em bé Cam pu chia đói khát
Đến trước tượng người vũ nữ Ăng co
Và vỗ nín em bằng cặp vú đá của nàng”

          Mừng xuân 1969 của Bác
“    Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Hai câu thơ thật sự hàm súc. Ở đây Bác đã trình bày những quan điểm bản chất của sự kiện, hiện tượng mà vẫn giữ nguyên sức hấp dẫn có tính nghệ thuật của nó. Câu thơ chỉ có 14 chữ nhưng đã nêu lên mục đích cuộc chiến đấu của dân tộc, vạch ra đường lối chiến đấu, chiến thắng bè lũ Mỹ - ngụy và phương thức chiến đấu, yêu cầu của từng thời kì chiến đấu sắp tới. Nó kết tinh từ những năm tháng suy tư của Bác. Câu thơ đó làm rung động lòng người, vì nói lên một trí tuệ lớn, một tình cảm lớn, và vì diễn đạt bằng hình thức nghệ thuật hàm súc, đối ý, đối chữ, trùng điệp vì cách dùng từ thật đắt: cút, nhào, vì nhịp điệu mạnh mẽ, dứt khoát.
Bài ca mùa xuân1961 (Tố Hữu) đã viết về cảm xúc yêu thương trong những ngày xuân đẹp
Anh nắm tay em sôi nổi vụng về
Mà nói vậy trái tim anh đó
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiêu
Phần cho thơ và phần để em yêu”.
Những từ dành, để, cho tuy được viết ra tự nhiên, nhưng thực ra đều có sự cân nhắc thích hợp với từng đối tượng và từng trạng thái tình cả. Ngôn ngữ thơ ca đòi hỏi sự chọn lọc chính xác tinh tế và có sáng tạo. Thông qua sự chọn lọc này, nhà thơ vừa phải tuân thủ một cách đầy đủ những quy tắc của ngôn ngữ đời sống lại vừa thể hiện tính chất chủ động trong sáng tạo
Những cách sử dụng ngôn ngữ có chọn lọc và sáng và sáng tạo trên đã đem lại cho ngôn ngữ thơ ca nhiều phẩm chất đáng quý. Ngôn ngữ chân chất, mộc mạc nhưng vô cùng trong sáng của thơ ca đã kết tụ lại ở những câu ca chứa chan thi vị và giàu sức biểu hiện.
Ra đi từ làng quê, Nguyễn Bính đến với thị thành với hành trang giàu có trong tinh thần và nghèo nàn về vật chất. Tình cảm về hình bóng quê hương như người bạn đồn hành trong suốt chặng đường dài của tác giả. Trong tuổi trẻ Nguyễn Bính lại có nhiều năm đèn sách và có vốn Nho học dáng kể. Sách và chữ của thánh hiền góp phần đào tạo gia phong. Nhưng rồi thời thế đổi thay, bút lông thành bút sắt, trường thi Nam Định trở thành trường bay ; nhà thơ “ lỡ duyên bím tóc củ hành” lại hăm hở ra đi tìm sự nghiệp ở bốn phươg trời với tư cách một thi nhân như tư cách nói. “Bỏ lại vườn cam bỏ mái gianh. Tôi đi dan díu với kinh thành” (Hoa với rượu). Hai chữ “dan díu” rất gợi cảm có ý nghĩa. Nguyễn Bính hay dùng chữ “dan díu”, từ sự “dan díu” trong thiên nhiên, “dan díu” mà không gây hậu quả gì:
Đồi sim dan díu nương chè
Trắng phau khói núi xanh lè áo ai.
                                  (Đường rừng chiều)
Đến sự dan díu nhiều màu vẻ và phức tạp hơn, của con người. Dan díu … thường thuộc về quan hệ tình cảm bạn bè, lứa đôi và có sự thích thú mê say. Dan díu như một tình cảm bị cuốn theo để tìm sự đồng cảm và bù đắp phần trống vắng của cảnh ngộ riêng của nhân vật trữ tình
       Chị từ dan díu với tình
Đời tươi như buổi bình minh nạm vàng
                                  (Lỡ bước sang ngang)
Nguyễn Bính thích thứ ngôn ngữ nhiều màu sắc, cả cảnh trong mơ và trong đời thực đều được Nguyễn Bính thêu dệt bằng những màu sắc tươi thắm. Đã nói mộng là mộng vàng, rượu là rượu hồng, mắt biếc môi son. Có những câu thơ chứa đựng toàn màu sắc:
Người yêu má đỏ môi hồng
Tóc xanh mắt biếc mà lòng bạc đen
                                         (Lại đi)
Xanh cây xanh cỏ xanh đồi
Xanh rừng xanh núi da trời cũng xanh
Áo chàm cô Mán thanh thanh
Mắt xanh biêng biếc một mình tương tư
                                  (Vài nét rừng)

Thơ Nguyễn Bính được mến mộ còn nhờ ngôn ngữ thơ giàu nhạc điệu, đó là cái nhạc điệu bên trong của nội tâm, chất chứa tâm trạng. Câu chữ nhiều khi chẳng có gì mà gợi biết bao đau đớn, quặng thắt;
Đấy tình duyên của đôi ta
Đến đây là … đến đây là…là thôi
(Rượu xuân)
Câu chuyện tình duyên của người xưng chị trong bài thơ Lỡ bước sang ngang ta thấy có sự éo le. Lần thứ nhất tình duyên đến với chị chỉ là một thứ hôn nhân không có tình yêu, một cuộc hôn nhân do họ hàng định đoạt, một sự gả bán không đếm xỉa gì đến tình cảm
Mười năm gối hận bên giường
Mười năm nước mắt bữa thường chan canh
Mười nămđưa đám một mình
Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên
Mười năm lòng lạnh như tiền
Tim đi hết máu cái duyên không về
Những từ “mười năm, mười năm” nhắc lại bốn lần, đứng đầu câu thơ thật não nề, làm ta liên tưởng đến những tiếng nức nở, những tiếng nấc và những tiếng đóng cái quan tài. Ấy là cái chết trong cuộc sống.
Tác giả bằng miệng người con gái, cho ta biết cô sống thế nào. Sống tức là ăn, là ngủ. Mà ăn thì “nước mắt bữa thường chan canh”…, ngủ thì “gối hận bên giường”, tất nhiên sống như vậy phải đưa đến cái chết. Cái chết được diễn tả cụ thể: đưa đám, đào sâu chôn chặt, lạnh(xác chết dưới mồ), tim đi hết máu. Ta hiểu: đây là cái chết của tâm hồn.
Trong bài thơ Tương tư, Nguyễn Bính đã nói lên nỗi tương tư nghìn đời của những đôi lứa. Nhưng xem chừng, hay nhất vẫn là sự kể lể về thời gian
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Lời thơ của Nguyễn Bính vẫn nguyên sự sốt ruột, khắc khoải của người trong cuộc, y như lời lẽ của người bóc lịch đếm từng ngày chậm chạp, rề rà trôi qua một cách vô tình, thậm chí như cố tình trêu ngươi vậy. “Ngày qua ngày lại qua ngày”, câu thơ đi nhịp 3/3, chia thành hai vế, vế này là sự trùng lặp của vế kia theo lối trùng điệp. Chữ “lại” chứa đựng sự ngán ngẩm, vừa hi vọng vừa như thất vọng. Tất cả gợi được nhịp vận hành lặp đi lặp lại của những ngày đợi chờ, mong mỏi mà hoàn toàn vô vọng !. Câu thơ thứ hai vẽ ra một người nóng lòng chờ đợi cùng với một cái cây mà chẳng biết đó là cây gì, chỉ biết nó cũng nặng trĩu tương tư. Thời gian với người tương tư chẳng vô hình. Nó có màu: ấy là màu vàng héo. Mỗi ngày qua để lại một vết trên vòm lá. Cái cây là một nhân chứng, một cuốn lịch thiên nhiên, một tri kỉ câm lặng, một kẻ đồng nạn. Anh đợi em khi cây hãy còn xanh, đến nay cây đã vàng hết rồi, vậy mà …Đợi chờ làm cây héo úa, làm người héo hon. Cây kia là hình ảnh khác của anh! Cái cây kia chính là hình ảnh của anh. Tả cảnh ngụ tình là thế. Phải nói, chữ “nhuộm” thật đắt. Chữ “nhuộm” gợi được thời gian. Quá trình chuyển đổi đã hoàn tất: lá xanh đã biến hẳn thành cây lá vàng rồi! sắc thái kể lể đậm hơn. Thời gian của đọi chờ của anh đằng đẵng, dằng dặc đến nỗi đủ nhuộm một cây xanh thành cây lá vàng hết cả rồi. Lời thơ vì thế mà khổ sở, khắc khoải bội phẩn.

       Sự kì diệu của ngôn ngữ thơ còn thể hiện ở việc nhà thơ kết hợp các biện pháp tu từ như: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, điệp từ, tượng trưng, ..trong cách diễn đạt và ngôn ngữ thơ phải có tính biểu cảm. Ở đó ngôn ngữ nói lên được cảm xúc của nhân vật. Ta có thể thấy được tâm sự của một cô giáo ở vùng núi cao mong có nhà, có con để đón bà lên bế cháu, đưa võng trưa hè. Nói một cách khác là ước mơ được làm vợ, làm mẹ.Tác giả đã nói tới sự xót xa của các cô khi tuổi của xuân đã mòn phai:
                                                            Ở rừng tự hát ru nhau
                                                Lá trầu chị héo quả cau em già.
Lá trầu, quả cau là biểu tượng cho hôn nhân hạnh phúc, nhưng ở đây lá trầu héo, quả cau già. Tất cả đã quá lứa lỡ thì, tuổi xuân đã quá “đát”.
Có nhà thơ so sánh mái tóc dài của thiếu nữ khá độc đáo Tóc em dài như một tiếng chuông ngân. (chuyển từ quan sát bằng thị giác sang thính giác). Hay Trần Đăng Khoa cảm nhận được âm thanh rất nhẹ của chiếc lá đa rơi trong bài Đêm ngủ ở Côn Sơn: Ngoài thềm rơi chiếc lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng... (chuyển sự cảm nhận từ thính giác sang thị giác). Tất cả những câu thơ trên đều gợi liên tưởng, tạo hình tượng khá rõ. Nếu không có trí tưởng tượng kỳ diệu thì khó mà viết được những câu thơ như thế.
      Đọc bài thơ hay, câu thơ hay ta như không còn thấy câu chữ nữa. Cái hay nằm trong sự giản dị. Nếu cố làm duyên làm dáng, điểm phấn tô son, đánh bóng ngôn từ sẽ sa vào xu hướng “vị nghệ thuật” thuần túy. Mây gió, cỏ hoa xinh tươi đến đâu hết thảy cũng đều từ trong lòng người nảy ra (Ngô Thời Nhậm). Có xúc cảm tốt, tìm được tứ thơ mới lạ nhưng nếu vốn ngôn ngữ nghèo nàn thì khó có được thơ hay. Có thơ hay toàn bài, có thơ chỉ hay ở một câu, một chữ.
       Tóm lại, có một điều không ai chối cãi là chất liệu đầu tiên, duy nhất để làm nên bài thơ là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là thứ của cải vô cùng quý báu và lâu đời của dân tộc (Hồ Chí Minh). Mỗi nhà thơ sẽ có cách tiếp cận, sử dụng riêng vốn ngữ toàn dân, ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ nghệ thuật để đưa vào bài thơ. Qua tiếng lòng của nhà thơ, ngôn ngữ được cấu trúc lại để tạo thành ngôn từ mới, đẹp, sâu xa, triết lí.






































TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.    Hà Minh Đức,Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, 1997
2.     Bùi Công Hùng, Quá trình sáng tạo thơ ca, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000
3.    Bùi Công Hùng, Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000
4.    Mã Giang Lân, Tìm hiểu thơ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000
5.    Trần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001
6.     Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ ( Tiểu luận) (Tái bản lần thứ nhất), Nxb Giáo dục, 1997

7.    Vũ Duy Thông, Cái đẹp trong thơ ca kháng chiến Việt Nam 1945- 1975 (Tái bản lần thứ nhất), Nxb Giáo dục, 2000

ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC NHO GIÁO ĐẾN MỘT SỐ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TRÃI

MỤC LỤC
c d
                                                                                                                                               Trang

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề……………………………………………………………………………2
2. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………………………..2
3. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………….2
NỘI DUNG
Chương 1:
HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN 
CỦA TRIẾT HỌC NHO GIÁO
1.1-Hoàn cảnh ra đời của triết học Nho giáo……………………………………………3
1.2- Nội dung cơ bản của triết học Nho giáo……………………………………………5
Chương 2:
ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC NHO GIÁO ĐẾN 
MỘT SỐ SÁNG TÁC  CỦA NGUYỄN TRÃI
2.1- Vài nét về tác giả Nguyễn Trãi đặc điểm một số sáng tác…………………………  9
2.1.1- Về tác giả Nguyễn Trãi…………………………………………………………..9
2.1.2- Về đặc điểm một số sáng tác…………………………………………………….11
2.2 Biểu hiện của sự ảnh hưởng………………………………………………………..   12
2.2.1- Ảnh hưởng của tư tưởng nhân nghĩa và thân dân……………………………….12
2.2.2- Ảnh hưởng của thuyết thiên mệnh………………………………………………14
2.2.3- Ảnh hưởng của tam cương, ngũ thường…………………………………………17
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………….21
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………….22
c d


PHẦN MỞ ĐẦU
                                                                   
1. Đặt vấn đề
Trung Hoa cổ đại là một trong những trung tâm văn hóa, khoa học và triết học cổ xưa, phong phú và rực rỡ nhất không chỉ của nền văn minh phương Đông mà của cả nhân loại. Trong số nền văn minh đó là những thành tựu của triết học Nho giáo đã ảnh hưởng đến nhiều nước, trong đó có nước ta. Chính vì lẽ đó, triết học Nho giáo chi phối nhiều đến các lĩnh vực của đời sống tinh thần của dân tộc ta là điều không tránh khỏi, nhất là ở lĩnh vực văn chương nghệ thuật. Và ở mỗi giai đoạn, mỗi thời đại khác nhau, ở những tác giả khác nhau thì sự thể hiện triết lí Nho giáo cũng khác nhau.
Hơn sáu trăm năm nay, tác giả Nguyễn Trãi cùng với sáng tác của ông đã trở thành đối tượng nghiên cứu của văn chương nghệ thuậtt và sự quy tụ niềm tự hào, trân trọng, kính phục, yêu mến của độc giả cũng như những nhà nghiên cứu. Những khía cạnh trong sáng tác của ông đều được người nghiên cứu đời sau xem xét thấu đáo. Nhưng thành tựu văn học của Nguyễn Trãi là vô cùng to lớn, vì vậy mà còn một số sáng tác của ông mới chỉ được xem xét trên bình diện tổng quát đó là sự ảnh hưởng của triết học Nho giáo.
            Qua bài nghiên cứu này, người viết có dịp đi sâu tìm hiểu tư tưởng nhân nghĩa, thân dân cũng như thuyết “thiên mệnh’’, về những tư tưởng đạo đức trong một số sáng tác của Nguyễn Trãi. Điều này sẽ giúp người viết có thêm vốn kiến thức để phục vụ tốt hơn cho việc học tập hiện tại và làm tài liệu cho công việc giảng dạy sau này.
            Chính vì những lí do trên nên người viết chọn đề tài “Ảnh hưởng của triết học Nho giáo đến một số sáng tác của Nguyễn Trãi’’.
2. Đối tượng nghiên cứu
-Tìm hiểu về hoàn cảnh ra đời và nội dung cơ bản của triết học Nho giáo
            -Tìm hiểu ảnh hưởng của triết học Nho giáo đến một số sáng tác của Nguyễn Trãi mà cụ thể là trong “Bình Ngô đại cáo” và tập thơ Nôm “ Quốc âm thi tập”.
3. Phương pháp nghiên cứu
          Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú ý đến các phương pháp logic vàlịch sử, phân tích tổng hợp, so sánh, gắn lí luận với thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ đề tài đặt ra.
NỘI DUNG
                                               Chương1:
                  HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA                                                          TRIẾT HỌC  NHO GIÁO.
1.1- Hoàn cảnh ra đời của triết học Nho giáo
Văn minh phương Đông cổ, trung đại chứng kiến sự phát triển rực rỡ của triết học Ấn Độ. Bên cạnh đó, nhân loại còn chứng kiến những thành tựu về mọi mặt của Trung Hoa cổ đại, nổi bật là sự ra đời của hàng loạt hệ thống triết học với những nhà triết học vĩ đại, tiêu biểu là triết học Nho giáo với tên tuổi của Khổng Tử, Mạnh Tử,và Tuân Tử.
Khổng Tử là người mở đầu cho trường phái triết học Nho gia. Người tên thật là Khổng Khâu, tự Trọng Ni, sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ bị sa sút ở nước Lỗ(nay thuộc tỉnh Sơn Đông-Trung Quốc). Thời đại của KhổngTử là thời đại mà trật tự lễ pháp cũ của nhà Chu đang bị đảo lộn. Ông có phong thái vừa là một vĩ nhân, vừa như một vị thánh nhân, ôn hòa, nghiêm trang, khiêm tốn, học không biết chán và dạy không biết mỏi. Người ta biết rất ít về quãng đời của Khổng tử trước lúc 35 tuổi. Chỉ biết rằng, dưới thời đại nhà Chu, Khổng Tử cũng ra làm quan, song chỉ giữ những chức quan nhỏ như coi kho, quản lí gia súc. Lúc ngoài 50 tuổi, Khổng Tử giữ chức Tư không sau chuyển sang chức Tư khấu nhưng chỉ giữ chức vụ này trong ba tháng. Do xã hội đảo lộn, người tài như Khổng Tử lại không được trọng dụng. Tuy nhiên những năm tháng làm quan đã giúp cho Khổng Tử có thêm quyết tâm lập lại pháp chế kỷ cương của nhà Chu với một nội dung mới cho phù hợp. Khổng Tử đã đi chu du thuyết khách qua bảy nước trong mười bốn năm nhưng vẫn không được tin dùng. Khoảng cuối đời ông trở về nước Lỗ dạy học. Sử ký ghi chép ông có đến 3000 học trò. Trong đó có 70 vào loại giỏi,thuộc tầng lớp nho sĩ đương thời. Như vậy không thành đạt trên quan trường, Khổng Tử lại rực rỡ trong lĩnh vực triết học. Ông bắt đầu viết những tác phẩm mà đời sau những tác phẩm ấy trở thành kinh điển. Trong những tác phẩm trên,Khổng Tử đã hệ thống hóa những tư tưởng, tri thứcđời trước cùng với quan điểm của ông thành học thuyết chính trị nổi tiếng chính là Nho giáo.
            Theo từ nguyên chữ Hán, Nho là bởi chữ Nhân đứng trên chữ Nhu mà thành. Nhân là người, Nhu là cần dung để giúp cho nhân quần trong xã hội biết đường ăn ở và hành động cho phù hợp với lẽ trời. Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết của ông được các thế học trò tiếp tục phát triển và trở thành một trường phái lớn lúc bấy giờ. Trong số họ, nổi lên một số đại biểu tiêu biểu như Mạnh Tử, Tuân Tử, những người có công lớn trong việc bảo vệ Nho gia và đưa nhiều tư tưởng mới vào hệ thống tư tưởng Nho gia của Khổng Tử.
Mạnh tử (tự là Dư, người đất Châu nước Lỗ- nay thuộc tỉnh Sơn Đông) thì đi sâu tìm hiểu bản tính con người trên cơ sở đạo nhân của Khổng Tử, đề ra thuyết “Tính thiện”. Ông cho rằng, “Thiên mệnh”quyết định nhân sự nhưng con người có thể qua việc tồn tâm dưỡng tính mà nhận thức được thế giới khách quan, tức cái gọi “tận tâm, tri tính, tri thiên”, “vạn vật có đủ trong ta”. Mạnh Tử đã hệ thống hóa triết học duy tâm của Nho gia trên phương diện thế giới khách quan và nhận thức luận.
Tuân Tử tên là Huống, tự là Khanh, người nước Triệu, là một đại Nho thời Chiến Quốc. Tuân Tử phát triển truyền thống Lễ của Nho gia nhưng trái với Mạnh Tử, Tuân Tử cho rằng con người vốn có “tính ác”, coi thế giới khách quan có quy luật riêng và theo ông sức người có thể thắng trời.
Kinh điển Nho gia bao gồm:Tứ thư:Trung dung, Đại hoc,Luận ngữ, Mạnh tử ; Ngũ kinh: Kinh dịch, Kinh thư, Kinh thi, Kinh lễ, Kinh xuân thu. Nội dung chủ yếu viết về xã hội, những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa. Tư tưởng về vũ trụ và tự nhiên chưa nhiều.
Nho giáo đi vào Việt Nam và được sùng thượng trong một thời gian dài dưới chế độ phong kiến. Khi các triều đại còn thịnh vượng, cái học của khoa cử và thụ hưởng ơn vua lộc nước được các Nho sĩ trí thức trẻ rất coi trọng. Phần lớn các nhà Nho với cái học của mình để tiếp thu và phát huy giá trị của văn hóa Trung Hoa. Nhà thơ thì gọt giũa thơ phú với những hình tượng điển tích ở kinh sách Nho gia. Phong thái của kẻ sĩ luôn gắn với tam cương ngũ thường và những tấm gương trung hiếu tiết nghĩa của Trung Hoa từ bao đời trước. Các nguyên lí trong các tác phẩm kinh điển được các nhà Nho dân tộc lựa chọn và giải thích khác nhau. Điều đó làm nên sự phong phú thậm chí đối lập nhau trong lập trường chính trị và của triết học. Có thể nói Nho giáo ở Việt Nam phát triển rực rỡ nhất là ở thếkỉ XV và đặc biệt dưới thời Hồng Đức triều vua Lê Thánh Tông.



1.2- Nội dung cơ bản của triết học Nho giáo
Triết học Trung Hoa cổ đại nhấn mạnh tinh thần nhân văn, nhân đạo. Các triết gia tập trung vào lĩnh vực luân lí đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Ra đời trong bối cảnh xã hội như đã nói ở trên, nội dung cơ bản của triết học Nho giáo mang nhiều đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ đại.
Trong học thuyết của Nho gia,Khổng Tử nêu lên nhiều quan điểm: quan điểm về giới tự nhiên, quan điểm về chính trị xã hội, quan điểm về nhận thức,…Những quan điểm này về sau tiếp tục được Mạnh Tử, Tuân Tử kế thừa, bảo vệ, bổ sung và phát triển. Ở phạm vi bài viết này, người viết nêu ra ba quan điểm cơ bản của triết học Nho giáo làm cơ sở nghiên cứu cho đề tài, đó là:quan điểm về thế giới, quan điểm về bản chất con người, quan điểm về chính trị xã hội.
                      *Quan điểm về thế giới.
            Trong học thuyết của Nho gia, Khổng Tử thường nói đến “Trời”, “Mệnh Trời”, “Đạo Trời”. “Trời” đối với Khổng Tử có chỗ như là giới tự nhiên, vận hành theo một quy luật “Trời có nói gì đâu, bốn mùa vẫn thay đổi, trăm vật vẫn sinh trưởng”, có chỗ ông khẳng định trời có ý chí “Than ôi!Trời làm mất đạo ta”, “Mắc tội với Trời không cần ở đâu mà thoát được”. Ý chí của trời là thiên mệnh.
            Khổng Tử cho rằng, mỗi cá nhân sự sống chết, phú quý hay nghèo hèn đều do        “Thiên mệnh” quy định. Mặt khác, ông lại cho rằng, con người bằng nỗ lực chủ quan của mình  cũng có thể thay đổi được cái thiên tính ban đầu. Theo ông, con người lúc sinh ra, cái tính trời phú cho là giống nhau nhưng quá trình tiếp xúc, học tập, nó làm cho khác nhau. Khổng Tử coi việc biết mệnh trời là một điều kiện để trở thành con người hoàn thiện.
            Mạnh Tử  phát triển tư tưởng “thiên mệnh”  của Khổng Tử và đẩy thế giới quan ấy tới đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm. Ông cho rằng không có việc xảy ra mà không do mệnh trời, mình nên tùy thuận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy. Từ đó, Mạnh Tử đưa ra học thuyết  : “Vạn vật đều có đủ trong ta, nên chỉ cần tự tĩnh nội tâm là biết được tất cả”, nghĩa là không phải tìm cái gì ở thế giới khách quan mà chỉ cần tu dương nội tâm là biết được tất cả.
Khổng Tử tin có quỷ  thần, nhưng quan niệm quỷ thần của ông có tính chất lễ giáo hơn tôn giáo. Ông cho rằng, quỷ thần là do khí thiên trong trời đất tạo thành. Tuy nhìn mà không thấy, lắng mà không nghe, thể nghiệm mọi vật mà không bỏ sót, nhưng mọi người đều cung kính, trang nghiêm để tế tự thì quỷ thần cả ở bên tả, bên hữu hình. Mặt khác, ông lại cho rằng, quỷ thần không có tác dụng chi phối cuộc sống con người. Ông phê phán sự mê tín quỷ thần và kêu gọi hãy chú trọng vào việc làm người của mình bởi vì đạo thờ người chưa biết thì làm sao biết đến đạo quỷ thần.
Như vậy, những người sáng lập Nho gia nói về tự nhiên không nhiều. Họ thừa nhận có “Thiên mệnh”, nhưng đối với quỷ thần lại xa lánh, kính trọng. Lập trường của họ về vấn đề này rất mâu thuẫn, có sự dao động giữa lập trường duy vật và lập trường duy tâm. Bởi vì khi thì họ tin vào mệnh trời và cho rằng người quân tử có ba điều sợ: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân và sợ lời thánh nhân. Nhưng bên cạnh còn có quan niệm: trời chỉ là lực lượng tự nhiên không có ý chí, không can thiệp vào công việc của con người.
        *Quan điểm về đạo đức
            “Đạo” theo Nho gia là quy luật biến chuyển, tiến hóa của trời đất, muôn vật.  Đối với con người, đạo là con đường đúng đắn phải noi theo để xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp. Đạo của con người, theo quan điểm Nho gia là phải phù hợp với tính của con người, do con người lập nên. Trong Kinh dịch, sau hai câu “Lập đạo của trời, nói Âm và Dương”, “Lập đạo của đất, nói nhu và cương” là câu “Lập đạo của người, nói nhân và nghĩa”.
Nhân nghĩa” theo cách hiểu thông thường thì “nhân là lòng thương người”, “nghĩa” là dạ thủy chung, bất nhân là ác, bất nghĩa là bạc; mọi đức khác của con người đều từ nhân nghĩa mà ra cũng như muôn vật, muôn loài trên trời, dưới đất đều do Âm Dương và nhu cương mà ra.
Đức “Nhân” xét trong mối liên hệ với đức “Nghĩa” thì “Nhân” là bản chất của       “Nghĩa”, bản chất ấy là thương người. Khổng Tử nói rằng, “Nhân là thương người”, người nào thật lòng thương người khác thì có thể làm tròn nghĩa vụ của mình. Đức           “Nghĩa” xét trong mối quan hệ với “Nhân” thì “Nghĩa” là hình thức của “Nhân”, là phần ta phải làm. Đó là mệnh lệnh tối cao. Trong cuộc sống xã hội, mọi người đều có những nhiệm vụ phải làm, làm nhiệm vụ vì nhiệm vụ, bởi vì những điều ấy đáng phải làm về phương diện luân lí. Nếu làm nhiệm vụ vì lí do khác, không vì luân lí thì hành vi của ta không hợp nghĩa, dẫu ta có làm tròn bổn phận. Khổng Tử cho rằng trong trường hợp đó hành động chỉ vì “lợi”. Với Nho gia, “nghĩa” và “lợi” là hai từ hoàn toàn đối lập. Nhà Nho phải biết phân biệt “nghĩa” và “lợi” và sự phân biệt này là tối quan trọng trong giáo dục đạo đức.
Đạo Nhân” có ý nghĩa rất lớn đối với tính con người do trời phú. Kinh điển Nho gia chỉ rõ “Trời mệnh cho là tính, kèm dẫn dắt tính gọi là “đạo”, tu dưỡng đạo gọi là      “giáo”. Tính của con người do trời phú mà cứ buông lơi, thả lỏng trong cuộc sống thì tính không thể tránh khỏi tình trạng biến chất theo tập tục, tập quán. Khổng Tử khuyên con người nên coi trọng “giáo’’ hơn “chính”, đặt giáo hóa lên trên chính trị.
Đức” gắn chặt với đạo. Từ “đức” trong kinh điển Nho gia thường được dùng để chỉ một cái gì thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người trong tâm hồn ý thức cũng như hình thức, dáng điệu… Mối quan hệ giữa đạo và đức trong trong cuộc sống con người: đường đi lối lại đúng đắn phải theo để xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp là đạo; noi theo đạo một cách nghiêm chỉnh, đúng đắn trong cuộc sống thì có được đức trong sáng quý báu ở trong tâm.
Trong kinh điển Nho gia, có năm quan hệ lớn, bao quát gọi là “ngũ luân” được khái quát là: vua- tôi, cha- con, chồng- vợ, anh- em, bầu bạn. Khi nói đến những đức thường xuyên phải trao dồi, Nho gia có năm chữ còn gọi là ngũ thường:Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Đối với các đệ tử nói chung, các danh Nho gộp cụm sáu chữ: Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa. Với những người có vị trí trọng trách, các danh Nho gộp thành một cụm ba chữ:Nhân, Trí, Dũng.Với những đức được đề cao, coi đó là hạt nhân, đó là Nhân và Lễ.
Tóm lại, nội dung cơ bản của đạo đức Nho gia là luân thường. “Luân” có năm điều gọi là ngũ luân, thường có năm điều chính gọi là “ngũ thường” đều là những đức tính do trời phú cho mỗi người: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Đứng đầu ngũ thường là nhân, nghĩa. Trong nhân nghĩa thì nhân là chủ. Đạo của Khổng Tử trước hết là Đạo nhân. “Luân” và “thường” gắn bó với nhau, nhưng trên lý thuyết và trong thực tiễn “luân” đứng trước “thường”.

      *Quan điểm về chính trị- xã hội
Quan điểm về chính trị - xã hội của triết học Nho giáo tập trung ở thuyết chính danh và thuyết “Lễ trị”.
Chính danh có Nghĩa là một vật trong thực tại cần phải phù hợp với cái danh nó mang. Nói cách khác, mỗi cái danh bao hàm trong đó một số điều kiện tạo nên bản chất loại sự việc mà danh liên quan đến. Trong xã hội, mỗi cái danh đều bao hàm một số trách nhiệm và bổn phận mà những cá nhân mang danh ấy phải có những trách nhiệm và bổn phận phù hợp với danh ấy. Nếu mỗi ngưòi thực hiện đúng danh, phận thì có chính danh. Nếu danh, phận không phù hợp dẫn đến lọan danh. Một xã hội có “chính danh”là một xã hội có trật tự kỉ cương, thái bình thịnh trị.
Lễ” hiểu theo nghĩa rộng là những nghi thức, quy chế, kỷ cương, trật tự, tôn ti của cuộc sống chung trong cộng đồng xã hội và cả lối cư xử hằng ngày. Với nghĩa này, lễ là cơ sở của xã hội có tổ chức bảo đảm cho phân định trên dưới rõ ràng, không bị xáo trộn, đồng thời nhằm ngăn ngừa những hành vi và tình cảm cá nhân thái quá.
Lễ” hiểu theo nghĩa một đức trong “ngũ thường” là sự thực hành đúng những giáo huấn kỷ cương, nghi thức do Nho gia đề ra cho những quan hệ “tam cương”, “ngũ thường”, “thất giáo” và cả sự thờ cúng thần linh. Đã là người thì phải học lễ, biết lễ và có lễ. Con người học lễ từ tuổi thơ. Với ý nghĩa này, “ Lễ” là nội dung cơ bản của lễ giáo đạo Nho. “Lễ” là cơ sở, là công cụ chính trị, là vũ khí của một phương pháp trị nước, trị dân lâu đời của Nho gia. Phương pháp lễ trị có thể đưa tất cả hoạt động vào nề nếp, có thể ngăn chặn mọi lỗi khi sắp xảy ra.
Đối với Mạnh Tử trong quan điểm về chính trị- xã hội, ông có tư tưởng hết sức tiến bộ đăc biệt là tư tưởng dân quyền. Ông cho rằng trong một quốc gia quý nhất là dân rồi mới đế vua, xã tắc và của cải: “Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ chi”. Từ đó Mạnh Tử chủ trương xây dựng chế độ bảo dân dưỡng dân. Ông yêu cầu người trị vì đất nướcphải lo cái lo của người dân, vui cái vui của người dân làm cho dân có sản nghệp riêng và cuộc sống yên bình no đủ. Mạnh Tử chủ trương khôi phục lại chế độ tĩnh điền để chia ruộng đất cho nhân dân hằn sản, hằn tâm.
Tóm lại, những quan điểm trên đã  tạo nên đặc trưng của triết học Nho giáo. Nho giáo không bàn về vấn đề sinh và diệt của con con người, không nhắc đến con đường để con người thoát khỏi bể khổ trầm luân như Phật giáo. Nho giáo bàn về mối quan hệ của con người và bổ phận của con người trong cuộc sống hiện tại. Tuy đôi lúc có những hạn chế khi so sánh hai hạng người quân tử, tiểu nhân hay tuyệt đối hóa chữ trung vượt lên trên chữ hiếu nhưng ảnh hưởng tích cực của Nho giáo đến dân tộc ta là không thể phủ nhận.

                                                                         Chương 2:
ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC NHO GIÁO ĐẾN MỘT SỐ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TRÃI

2.1 Vài nét về tác giả Nguyễn Trãi và đặc điểm một số sáng tác
2.1.1 Về tác giả Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi (1380- 19-9-1442) hiệu Ức Trai, quê ở xã Chi Ngại, lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), sau dời đến làng Ngọc Ổi, xã Sơn Nam Thượng, huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). Thân phụ là Nguyễn Ứng Long sau đổi tên là Nguyễn Phi Khanh vốn là học trò nghèo, thi đỗ Thái học sinh. Thân mẫu là Trần Thị Thái, con quan tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý tộc. Như vậy, Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình Nho học, bên nội cũng như bên ngoại đều có truyền thống quý báu yêu nước và yêu văn hóa, văn học.
Nguyễn Trãi sống trong thời đại đầy biến động dữ dội. Nhà Trần suy vi, Hồ Quý Li lên thay, lập ra nhà Hồ. Vốn là người tài trí, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) và ra làm quan dưới triều nhà Hồ cùng với cha mình. Ông được triều Hồ trao giữ chức ngự sử đài chánh chưởng khi mới vừa tròn hai mươi tuổi. Năm 1407, quân Minh đem quân xâm lược nước ta, nhà Hồ tổ chức cuộc kháng chiến  chống Minh nhưng vì không hợp lòng dân nên bị thất bại nhanh chóng. Giặc Minh bắt cha con Hồ Quý Li cùng các triều thần đem về Trung Quốc trong đó có Nguyễn Phi Khanh. Tương truyền lúc bấy giờ, Nguyễn Trãi muốn giữ tròn đạo hiếu đã cùng em trai theo cha sang Trung Quốc. Nhưng đến ải Nam Quan, nghe lời cha dặn phải tìm cách rửa nhục cho đất nước, ông đã trở về và bị giặc bắt giam lỏng ở thành Đông Quan. Nguyễn Trãi đã bỏ trốn, tìm theo Lê Lợi dâng “Bình Ngô sách” và được Lê Lợi tin dùng. Ông đã trở thành quân sư số một của Lê Lợi. Từ đó bắt đầu một đoạn đời đắc chí hào hùng. Ông cùng Lê Lợi bàn mưu tính kế, giúp Lê Lợi soạn các loại văn thư chiếu lệnh, góp công lớn trong sự nghiệp giải phóng đất nước. Trải qua nhiều năm tháng tìm đường cứu nước, bước chân trải dài khắp dặm dài xứ sở, đặc biệt là quãng dời mười năm gian khổ “ nếm mật nằm gai” gắn bó với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đến ngày toàn thắng, Nguyễn Trãi đã tỏ ra bản lĩnh, khí phách và tinh thần Đại Việt, trở thành nguồn sáng phẩm chất và tinh hoa dân tộc. Sau khi đuổi xong giặc nước, Nguyễn Trãi chưa kịp thực hiện những hoài bão của mình thì cuộc đời chuyển sang giai đoạn khó khăn và bi thảm. Sau thắng lợi một năm, Lê Lợi bắt đầu nghi kị các công thần, bản thân Nguyễn Trãi cũng bị nghi ngờ, ông bị bắt và bị tống giam. Ít lâu sau được tha nhưng không còn tin dùng nữa. Năm 1439 ông xin cáo quan về ở Côn Sơn, nhưng chỉ mấy tháng sau, vua Lê Thái Tông lại vời ông ra làm việc nước. Nguyễn Trãi hi vọng một thời cơ mới.
            Chính những năm tháng như vậy đã có ảnh hưởng trực tiếp, quyết định đến sự hình thành con người nghệ sĩ vĩ đại ở ông.
Nhưng đáng tiếc rằng vụ án Lệ Chi Viên (1442) oan khiên với hình thức tru di tam tộc mà Nguyễn Trãi phải gánh chịu chính là hệ quả tất yếu của những cuộc tranh giành ngôi thứ, bè phái nảy sinh vào thời hậu chiến trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể lúc bấy giờ. Đó cũng chính là hậu quả- nghịch lý khôn lường của tấm lòng ngay thẳng, tinh thần dấn thân, dám nói thẳng, nói thật, thể hiện một nhân cách lịch sử sáng soi kim cổ.
Xuất thân từ gia đình Nho học, vì thế mà những tư tưởng Nho giáo đã ảnh hưởng trong sáng tác của Nguyễn Trãi nhưng do đặc điểm của thời đại mà những tư tưởng ấy không ảnh hưởng một cách cứng nhắc mà ở ông có một cách tiếp cận mới, sáng tạo phù hợp với nhu cầu và tinh thần thời đại. Chúng ta xem xét cuộc đời, tư tưởng và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi có thể khẳng định “ông đã trở thành hiện thân cho bước chuyển giao thời đại từ Phật giáo Lí- Trần sang Nho giáo, người đặt nền móng tư tưởng văn học nghệ thuật cho thời đại Nho giáo thịnh trị, đặc biệt trong buổi ban đầu còn rực rỡ ánh hào quang của tinh thần phục hưng dân tộc và ý nghĩa nhân đạo nhân văn cao cả”.[5; 12]



2.1.2- Về đặc điểm một số sáng tác
Nguyễn Trãi là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học, trong tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm, trong văn chính luận và thơ trữ tình. Ông đã để lại một khối lượng sáng tác lớn với nhiều tác phẩm có giá trị.
* Về tác phẩm viết bằng chữ Hán
- Quân Trung từ mệnh tập: đó là những thư từ, biểu, quân lệnh gởi cho các tướng tá của ta và những bức thư ông nhân danh Lê Lợi viết để giao thiệp với các tướng, với triều đình nhà Minh nhằm thực hiện kế “đánh vào lòng người”.
- Bình Ngô Đại Cáo: là bài cáo tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên giặc Ngô, tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh một cách toàn diện và sâu sắc, đồng thời đó cũng là tuyên ngôn về lòng yêu hòa bình của nhân dân ta. Nói như tác giả Mai Quốc Liên “Bình Ngô đại cáo là sự chung đúc những tinh hoa của tư tưởng yêu nước Việt Nam, đến Nguyễn Trãi, qua Nguyễn Trãi đã được nâng lên một tầm cao chưa từng thấy trong lịch sử tư tưởng Việt Nam trước khi nhà yêu nước vĩ đại Nguyễn Ái Quốc gặp chủ nghĩa Mác-Lênin”[5; 294].
            - Lam Sơn thực lục: ghi chép quá trình phát triển của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và nêu cao bài học lớn về sự gắn bó giữa lãnh tụ với nhân dân như một điều kiện quyết định để chiến thắng quân xâm lược.
 - Ức Trai thi tập (105 bài): thể hiện những cảm xúc trữ tình cá nhân.
            Ngoài những tác phẩm chữ Hán kể trên còn có Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn Vĩnh Lăng thần đạo bi.
* Về tác phẩm viết bằng chữ Nôm: Quốc âm thi tập (254 bài). Đây là tập thơ chữ Nôm ghi lại những cảm xúc cá nhân cho ta thấy đời sống tâm hồn phong phú, những tư tưởng cao quý của Nguyễn Trãi.
            Xuất thân từ gia đình Nho học cho nên những đạo lý của Nho giáo cũng đã ảnh hưởng đến Nguyễn Trãi từ trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong sáng tác. Có thể nói rằng Nguyễn Trãi là người đầu tiên đem triết lý Nho giáo vào văn chương một cách đậm đà. Nước ta trước kia cũng đã từng có một Chu An, một Trương Hán Siêu, … cũng là đệ tử của cửa Khổng sân Trình nhưng thi ca của họ ít bài tỏ triết lý, luân lý đạo Nho. Với Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập, Quốc âm thi tập, … ta thấy rõ Nguyễn Trãi đã chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng Nho giáo. Nguyễn Trãi tiếp nhận tư tưởng Nho giáo và đã thể hiện những tư tưởng đó trong sáng tác. Nguyễn Trãi là một thi nhân một đệ tử của Khổng Mạnh, một nhà tư tưởng nhưng những tư tưởng của Nguyễn Trãi không phải là thứ tư tưởng siêu hình, cao siêu, xa lìa cuộc sống mà là tư tưởng thực dụng, gắn liền với cuộc sống, đi sâu vào cuộc đời và ở với con người. và ta cũng thấy rằng ông không phải là một nhà triết lý suông mà trái lại Nguyễn Trãi đã thực hiện những tư tưởng đó trong cuộc sống. trong cuộc đời, Nguyễn Trãi đã lấy tư tưởng Nho giáo là kim chỉ nam cho những suy tư và hành động. Và những tư tưởng ấy ta thấy rõ trong “Bình Ngô đại cáo” và “Quốc âm thi tập” của ông.
2.2-Biểu hiện của sự ảnh hưởng
2.2.1- Ảnh hưởng của tư tưởng nhân nghĩa và thân dân
Tinh hoa của Nho giáo mà Nguyễn Trãi tâm đắc là nhân nghĩa. Trong hầu hết các tác phẩm của mình Nguyễn Trãi nói rất nhiều về nhân nghĩa và rất chân thành về nhân dân. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa và nhân dân hầu như không tách rời nhau. Chưa dám nói rằng trong học thuyết và văn chương Nguyễn Trãi người dân chiếm vị trí trung tâm, song có thể quả quyết rằng người dân chiếm vị trí trọng yếu.
            Mở đầu “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi nêu nguyên lý nhân nghĩa. Đây là nguyên lý có tính chất phổ biến mặc nhiên thừa nhận lúc bấy giờ:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”
            Nguyên lý nhân nghĩa Nguyễn Trãi nêu ở đây là một tiền đề có tính chất tiên nghiệm bởi tiền đề này có nguồn gốc từ phạm trù nhân nghĩa của Nho giáo. Khổng Tử nói đến chữ “nhân”, Mạnh Tử nói đến chữ “nghĩa”. “Nhân nghĩa” được nhiều người giải thích, cách nói, cách hiểu đôi khi khác nhau nhưng nhìn chung mọi người đều thừa nhận nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lý. “Nhân nghĩa” là yên dân trừ bạo, tức là tiêu trừ tham tàn bạo ngược, bảo vệ cuộc sống yên ổn của dân. Là một trí thức Nho giáo, “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi cũng bao hàm ở đó. Nhưng ở bài cáo, tác giả khai thác sâu khía cạnh nhân nghĩa có lợi cho dân tộc: “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”.
Việc đưa một tiền đề tiên nghiệm như vậy đối với tâm lý con người lúc bấy giờ là có tính thuyết phục cao. Bởi lẽ thời trung đại ở Việt Nam, Trung Quốc và nhiều nước phương Đông, tư tưởng nhân nghĩa là một chân lý mặc nhiên được thừa nhận. Tuy nhiên lại phải nhấn mạnh khi đưa tiền đề tiên nghiệm Nguyễn Trãi đã biết chắc lọc lấy hạt nhân cơ bản, tích cực.
            Trong hai câu đầu, Nguyễn Trãi đã xác định mục đích nội dung cơ bản, tích cực của tư tưởng nhân nghĩa. Ông đem đến một nội dung mới, lấy ra từ thực tiễn dân tộc để đưa vào tiền đề có tính chất tiên nghiệm nhân nghĩa phải gắn liền với chống xâm lược. Nội dung này trong quan niệm Khổng, Mạnh và Nho gia Trung Quốc hầu như không có: nhân nghĩa là chống xâm lược, chống xâm lược là nhân nghĩa. Có như vậy mới bóc trần luận điệu nhân nghĩa xảo trá của địch, mới phân định rạch ròi ta là chính nghĩa, giặc xâm lược là phi nghĩa. Cũng trong “Bình Ngô đại cáo” có đoạn nói:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
            Học thuyết tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi suy cho cùng là yêu nước, thương dân, đúng như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận định “Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thương dân có một mối quan hệ rất khăng khích. Đó là một điểm mới bởi vì thường thường, người là chỉ cột chặt ái quốc với trung quân mà thôi” [5; 890].
Có thể hiểu rằng, ở “Bình Ngô đại cáo” nói riêng, ở các tác phẩm yêu nước của Nguyễn Trãi nói chung, khái niệm nhân nghĩa là một đường lối chính trị cứu nước cứu dân “yêu nước là thương dân, để cứu nước phải dựa vào dân, và cứu nước là để cứu dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi người.” [5; 272].
            Đối với Nguyễn Trãi, ông lo cho dân trong thời chiến cũng như trong thời bình. Yêu cầu chủ yếu vẫn là:
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,
  Có nhân, có trí, có anh hùng”.
(Bảo kính cảnh giới-Bài 5)
            Dường như câu nói “Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” bất hủ của nhà Nho tiến bộ Phạm Trọng Yêm thời Tống (Trung Quốc) đã in sâu trong lòng của Nguyễn Trãi. Đáng chú ý là ông nhắc đi nhắc lại “tiên ưu” mà không hề nói đến lạc hậu.
            Tư tưởng thân dân còn thể hiện ở sự biết ơn dân.
Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày
            Trong thời phong kiến, từ cửa miệng của quan đại thần thật không dễ gì mà nghe tuyên bố rằng ăn lộc không phải trước hết biết ơn vua mà trước hết mang ơn kẻ cấy cày.
Thương dân còn là xây dựng cho dân một nền thái bình thịnh trị bền vững và lâu dài. Cũng như các nhà Nho chân chính, Nguyễn Trãi có tham vọng làm cho yên dân, yên đến cái mức như đặt nằm trên chiếu nệm. Và ông mơ ước rằng
Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn,
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền”.
(Bảo kính cảnh giới-Bài 5)
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ, khắp đòi phương”.
(Bảo kính cảnh giới-Bài 43).
            Có như vậy mới thỏa được ước mong của mình.
            Như vậy, khía cạnh “con người” trong người anh hùng Nguyễn Trãi chính là vẻ đẹp nhân bản đã góp phần nâng người anh hùng dân tộc lên tầm nhân loại.
2.2.2- Ảnh hưởng của thuyết thiên mệnh.
Triết học Nho giáo đã nói đến “thiên mệnh”. Theo Nho giáo trời là cái lý vô hình, rất linh diệu làm chủ mọi sự biến hóa trong vũ trụ, không một thế lực nào có thể ngăn cản nổi. trong Luận ngữ, thiên Nghiêu viết, Khổng Tử nói “bất tri mệnh, vô dĩ quân tử”, nghĩa là không biết mệnh trời, không thể làm quân tử. Và trong Luận ngữ, thiên biến vấn, Khổng Tử cũng nói: “đạo chi tương hành dã dư mệnh dã, đạo chi tương phế dã dư, mệnh ”, nghĩa là đạo của người mà thi hành được là do mệnh trời, không thi hành đuợc cũng do mệnh trời. Trong sách Trung dung, Khổng Tử cũng nói: “Thượng bất oán thiên, hạ bất vu nhân, cư dị sĩ mệnh”, nghĩa là trên không oán trời, dưới không oán người, cứ bình dị mà đợi mệnh. Bởi vì “thiên mệnh” tức là lẽ biến hóa tự nhiên, là lý đương nhiên mọi người phải công nhận cho nên nười quân tử phải biết  “thiên mệnh”.
             Nguyễn Trãi trước hết là một Nho sĩ cho nên tư tưởng của ông là tư tưởng của Nho giáo. Ông cũng đã tin vào thuyết “thiên mệnh”. Những tư tưởng ấy dã được thể hiện rõ trong một số sáng tác của ông.
Nguyễn Trãi cho rằng sự thành bại, giàu sang phú quý hay đói rách nghèo hèn đều do mệnh trời sắp đặt. Tư tưởng này ta thấy rõ ở một số bài thơ trong “Quốc âm thi tập”.
Được thua phú quý dầu thiên mệnh,
Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn”.
                                                                                    ( Mạn thuật- bài 5)
Những cái được, cái phú quý của con người đã được mệnh trời sắp đặt, người ta phải theo mệnh trời. Ở ngôn chí bài 9 tác giả cũng khẳng định.
                                                “Sang cùng khó bởi chưng trời,
                                                 Lăn lóc làm chi cho nhọc hơi”.
        Hoặc:
Mới biết danh hư đà có số,
Ai mà cãi được đạo trời”.
                                      (Tự thán- bài 5)
            Như vậy, con người không cãi được đạo trời. Vì thế mà con người phải có một phép xử thế cho đạo người hợp lý với đạo trời.
            Các nho sĩ đã tin vào sự tuần hoàn của trời, của thiên đạo. Hết xuân hạ đến thu đông, hết cơn bĩ cực tới hồi thái lai. Cuộc đời cứ xoay vần chứ không bao giờ đứng yên một chỗ. Với niềm tin đó, Nguyễn Trãi cũng an nhiên tự tại, dù gặp thất bại cũng không đau khổ, dù gặp thành công cũng không tự đắc.
 “Vắn dài, được mất dầu thiên mệnh,
                                        Trãi quái làm chi cho nhọc nhằn” (Bảo kính cảnh giới- bài 48)
                                                 “ Cho hay bĩ thái mới lề cũ,   
                                                Nếu có nghèo thời có an’’  (Bảo kính cảnh giới- bài17)
            Hầu như ở mỗi một bài đều nói đến một vấn đề nào đó, đối vớ người có Hán học là rất quen thuộc vì đã gặp đâu đó trong sách vở Nho gia, thậm chí có thể xem là ông diễn đúng mực những quan điểmcủa Nho gia nữa. Thế nhưng về tinh thần và nội dung thì không phải như vậy. Nguyễ Trãi không nhấn mạnh các quan hệ luân thường, các lời khuyên không trình bày như những bổn phận, không có ý nghĩa thiên lý, nhân luân mà đó là lời tâm sự của người từng trải. Đây là lời khuyên, một kinh nghiệm xử thế.
Nếu như thuyết “thiên mệnh” ảnh hưởng ở một số bài trong “ Quốc âm thi tập” nhằm để thể hiện một lờ tâm sự hay đó là một lời khuyên với mọi người về một kinh nghiệm xử thế thì ở “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi thể hiện thuyết thiên mệnh ở khía cạnh khác.
                                                “ Xã tắc từ đây vững bền,
                                                Giang sơn từ đây đổi mới,
                                                Càn khôn bĩ rồi lại thái,
                                                Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
                                                Muôn thuở nề thái bình vững chắc,
                                                Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
                                    Âu cũng nhờ trời đất tổ tông ngầm giúp đỡ mới được như vậy”.
Trong lời tuyên bố này, cảm hứng về độc lập dân tộc và tương lai đất nước đã hòa huyện với cảm hứng về vũ trụ khi “”, khi “hối” nhưng quy luật là hướng tới sự sáng tươi, phát triển. Sự thay đổi nhưng thực chất là sự phục hưng, đó là điều kiện để thiết lập sự vững bền. Sự kết hợp giữa sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại làm nên chiến thắng. Cũng trong lời kết của “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi nhắc đến “trời đất, tổ tông khôn thiên ngầm giúp đỡ”. Đó là sự nhắc nhở mọi người tự hào về quá khứ, càng biết yêu hơn hiện tại và vui mừng hướng tới tương lai.
Như vậy, thuyết “thiên mệnh” đã được Nguyễn Trãi thể hiện trong một số sáng tác của mình là sự tổng kết qua nhiều năm tháng sống trong một thời đại “bĩ rồi lại thái”, “hối rồi lại minh”. Tư tưởng “thiên mệnh” ấy, chủ trương con người sống theo phận vị giữ đúng đạo nghĩa, mệnh trời. Nhưng Nguyễn Trãi là người rất uyên bác, có tinh thần dân tộc cao nên khi dùng những đạo lý ấy khái quát những nề nếp sống theo truyền thống dân tộc nó không quá khô khan, cứng nhắc. Đó là một thái độ sống tự do tự tại. Vì thế tư tưởng của Nguyễn Trãi ở đây vẫn thuộc Nho giáo, nhưng là một Nho giáo khoáng đạt, rộng rãi, không câu nệ. Nó không chỉ gần gũi mà còn phong phú hơn trong đời sống của dân tộc ta.

2.2.3- Ảnh hưởng của tam cương, ngũ thường
Triết học Nho giáo đã đặt ra những nguyên tắc cho cuộc đời, những thứ bậc buộc con người phải luôn luôn tôn trọng. Những nguyên tắc ấy, Nho giáo nói đến mối tương quan giữa gia đình và xã hội. Đó là ba mối quan hệ quan trọng chi phối trong mọi tình cảm và bổn phận con người: quân thần, phụ tử, phu thê. Mặt khác, Nho giáo cũng nêu lên những đức tính quan trọng mà con người cần phải có để cho con người và cuộc đời trở nên tốt đẹp hơn. Đó là: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Nguyễn Trãi là một Nho sĩ, là một nhà đạo đức nên ông đã hướng đến luân lý của Nho giáo. Nguyễn Trãi đã đi theo đường lối “văn dĩ tải đạo” của Nho giáo, nghĩa là đem văn chương để truyền bá tư tưởng, đạo lý của thánh hiền. Trước tiên ta thấy trong sáng tác của ông luôn nói đến trung và hiếu. Con người của Nguyễn Trãi luôn hướng đến bổn phận thiên liêng đối với gia đình và đất nước. Khi ra làm quan hay lúc về ở ẩn, lúc nào ông cũng tâm niệm về hai chữ trung hiếu.
Bui có một niềm chăng nỡ trễ
Đạo làm con mấy đạo làm tôi”.
                                    (Ngôn chí – bài 1)
Quân thân chưa báo lòng canh cánh
Tình phụ cơm trời, áo cha”.
                                    (Ngôn chí – bài 7)
Đạo làm tôi, làm con lúc nào cũng canh cánh đối với Nguyễn Trãi, lúc nào ông cũng nói về trách nhiệm của một bề tôi, của người con. Đó là những câu nói về nghĩa vua tôi, về tình cha con xiết bao cảm động.
Quan niệm trung hiếu đã ăn sâu trong tâm hồn của Nguyễn Trãi. Dù cuộc đời có đổi thay nhưng tư tưởng ấy không bao giờ thay đổi. Ông khẳng định duy nhất có một tấm lòng trung và hiếu.
                                                “ Bui có một lòng trung lẫn hiếu,
                                                 Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.
                                                                                    (Thuật hứng – Bài 24)
Trong sáng tác của mình, Nguyễn Trãi cũng nói nhiều về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
                                                “Thấy lợi thì làm cho phải nghĩa,
                                                Mã tây mặc khiến mấy lòng đan”.
                                                                                    (Bảo kính cảnh giới – Bài 6)
                                                “Bầu bạn cùng nhau nghĩa chớ vong,
                                                Người kia phú quý nỡ quên lòng.”
                                                                                    (Bảo kính cảnh giới – Bài 51)
                                                “Khuyên kẻ trượng phu xin ở thế,
                                                Hễ đừng bất nghĩa chớ loàn đơn”.
                                                                                    (Bảo kính cảnh giới – Bài 58)
Nguyễn Trãi đã thấy rõ lòng dạ người đời tham lam. Con người vì điều lợi mà bỏ quên nhân nghĩa, liêm sĩ. Tình vua tôi, cha con, anh em, bè bạn tan vỡ vì người tham lợi, xã hội tan nát vì con người tham dục. Nguyễn Trãi đã sống trong một xã hội tan rã vì chiến tranh cho nên ông đã ý thức được bổn phận của kẻ sĩ là phải quảng bá tư tưởng Nho giáo để cứu vớt con người và xã hội. Ông khuyên con người hãy lấy nghĩa mà đối xử với nhau.
            Trong thơ Nguyễn Trãi, những quan niệm về tam cương, ngũ thường luôn luôn kết hợp với nhau.
                                                “Thủy chung mỗ vật đều nhờ chúa,
                                                Động tĩnh nào ai chẳng bởi thầy.
                                                Hỉ nộ cương nhu tuy đã có,
                                                Nghĩa nhân lễ trí mã cho khuây”.
                                                                                    (Mạn thuật – Bài 3)
Theo quan niệm Nguyễn Trãi, người quân tử phải là người tài đức vẹn toàn. Có đức mà không có tài thì kém cỏi, không làm được việc gì, nhưng có tài mà không có đức như là con hổ dữ, cái tài đó thật đáng sợ. Vì vậy, người đi học phải có tài lẫn đức.
                                                “Đạo đức hiền lành được mọi phương,
                                                Tự nhiên cả chúng muốn suy nhường”.
                                                                                    (Bảo kính cảnh giới – Bài 1)
                                                “Ngõ cửa nhân chờ khách đến,
                                                Trồng cây đức để con ăn”.
                                                                                    (Mạn thuật – Bài 5)
                                                “Tài đức thì cho lại có nhân,
                                                Tài thì kém đức một hai phân.
                                                Thờ cha lấy thảo làm phép,
                                                Gặp chúa hằng ngày mấy cần”.
                                                                                    (Bảo kính cảnh giới – Bài 57)
Rõ ràng trong thơ ông, cái đức luôn đứng đầu. đối với mọi người, ta cần phải có lòng nhân. Người làm cha phải biết tu nhân tích đức để lại cho con cái, kẻ làm con phải biết hiếu thảo, ấy là đức vậy. Cái quan niệm tu nhân tích đức của ông bắt nguồn từ chữ “nhân” của Nho giáo và Phật giáo. Quan niệm của Nho giáo và Phật giáo đều cho rằng ai làm điều thiện sẽ được những điều tốt lành, ai ở ác sẽ gặp ác. Khổng Tử đã dạy: “Vi thiện dã, thiên báo chi dĩ phúc; vi bất thiện dã, thiên báo chi dĩ họa”, nghĩa là người làm điều lành thì trời lấy phúc mà báo cho, người làm điều chẳng lành thì trời lấy vạ mà báo cho. Quan niệm đó gần gũi với nhân dân, nó được người bình dân chấp nhận giống như quan niệm của dân gian ta “gieo gió gặt bão”, “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Chính vì thế người ta luôn thận trọng mỗi khi hành động vì họ luôn nghĩ đến tổ tiên, đến con cháu
                                                “Tích đức cho con hơn tích của,
                                                Đua lành, cùng thế mã đua khôn”.
                                                                                    (Tự thán – Bài 41)
                                                “Chớ lấy hại người làm ích kỷ
                                                Hãy năng tích đức để cho con.”
                                                                                    (Bảo kính cảnh giới – Bài 22)
Nhân đức hay nhân nghĩa, từ bi hay bác ái đều là một vì cùng nhau hướng đến tình thương nhân loại. Tình thương của Nguyễn Trãi thật bao la, ông thương yêu muôn loài dù là đối với những loài vật nhỏ bé.
                                                “Lòng hiếu sinh nhiều cá ngại câu
                                                                                    (Tự thuật – Bài 10)
Đối với loài vật mà Nguyễn Trãi còn thương yêu như vậy, huống chi là đối với con người. Ông đã lấy lòng nhân của Nho giáo mà khuyên răn con cháu, dạy bảo hậu sinh bằng những lời thơ thật tha thiết. Đi xa hơn nữa, ông còn vạch ra một chương trình  hành động cho kẻ sĩ. Khi đã ra làm quan thì kẻ sĩ phải hết lòng trung thành với vua với Tổ quốc, phải đem những lời đạo đức để can gián vua chớ nên dua nịnh, làm điều gian tà hại nước hại dân. Ông cho rằng kẻ sĩ phải có tấm lòng như Ngụy Trưng đời Đường, Bao Chửng đời Tống của Trung Quốc:
                                                “Khoe tuyết làu làu nơi học đạo
                                                Ở triều khăn khắn chữ trung cần”.
                                                                                    (Bảo kính cảnh giới – Bài 60)
Ở đài các giữ lòng Bao Chửng,
Nhậm tướng khanh thì thói Ngụy Trưng”.
                                                                                    (Bảo kính cảnh giới – Bài 61)
Như vậy, trong thuyết tam cương, ngũ thường, Nguyễn Trãi đã đem lại cho ta những đức tính cần thiết của con người trong mối quan hệ với mọi người, với gia đình, hang xóm, Tổ Quốc. Người có đạo đức không phô phang cũng không lo, không oán, không so đo về được mất, hơn thua ít nhiều. Sống có đạo đức giúp cho con người khiêm tốn, nhường nhịn, đối xử khoan thứ, rộng rãi, đó cũng là bí quyết của cuộc sống, bí quyết của hạnh phúc con người. Ở thuyết này, ông cũng nói nhiều đến trung hiếu, trung hiếu là lẽ sống của ông là phẩm chất “mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen” của người tri thức. Ông cũng nói trung hiếu như mọi nhà Nho nhưng trung hiếu ở ông lại mang một nội dung truyền thống của dân tộc Việt Nam. Sáu trăm năm nay, những tư tưởng ấy mà Nguyễn Trãi thể hiện trong các sáng tác của mình vẫn còn giá trị. Nó góp phần vào việc học tập, trau dồi những tư tưởng tiến bộ của mỗi người Việt Nam trong thời đại hiện nay.











                                                KẾT LUẬN

Như vậy, hệ tư tưởng chi phối Nguyễn Trãi trong suốt cuộc đời là Nho giáo và những tư tưởng ấy đã ảnh hưởng sâu đậm trong sáng tác của ông. Nhưng ở từng thời kỳ, trong từng phạm vi, Nho giáo luôn luôn có những nét khác. Nguyễn Trãi đã cân nhắc lựa chọn, không phải chỉ máy móc theo sách vở mà có sự sáng tạo theo hướng mới. Ông nhấn mạnh đức nhưng không phải không chú ý đến tài trí, đề cao nhân nghĩa nhưng không cự tuyệt quyền mưu, nói nợ quân thân tất lòng trung hiếu nhưng lại nhấn mạnh ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày, trách nhiệm theo lòng dân, vì nhân dân.
Ước mong của Nguyễn Trãi là một cuộc sống thái bình lâu dài cho nhân dân, một quan hệ hòa bình vững chắc với Trung Quốc và các nước láng giềng, một xã hội Nghiêu Thuấn với những con người tốt đẹp. “Ông đã lựa chọn Nho giáo nhưng là xu hướng nhân đạo chủ nghĩa nhất trong Nho giáo thời đó. Nguyễn Trãi rất yêu nước. Rất tự hào về truyền thống văn hiến của dân tộc, điều đó làm cho ông dũng cảm, kiên quyết chống xâm lược nhưng không làm cho ông vì thù hận mà cố chấp, vì chiến thắng mà thành tự cao, vì dân tộc mà thành bài ngoại. Yêu nước, tự hào dân tộc làm Nguyễn Trãi tự tin, tự nhiệm, tự cường quyết tâm làm cho văn hiến nước nhà rạng rỡ không thua kém Trung Quốc…Chứ không cự tuyệt mọi cái của Trung Quốc…Nguyễn Trãi chọn Nho giáo thay cho Phật giáo thời Lý- Trần, nhưng không phải ông từ bỏ truyền thống Lý- Trần mà làm cho nó cao hơn và rộng rãi hơn” [5; 125]
   








                                                TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Bộ giáo dục và đào tạo,(2007), Giáo trình triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), NXB lý luận chính trị, Hà Nội.
2) Trần Đình Hượu, (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
3) Trần Văn Phòng (chủ biên), Nguyễn Thế Kiệt(2008), Hỏi-đáp môn triết học Mac- Lênin,NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
4) Đinh Ngọc Quyên, Nguyễn Đại Thắng (2007),Giáo trình lịch sử triết học, Trường đại học Cần Thơ, Khoa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ môn triết học.
5) Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Trãi- Về tác gia và tác phẩm,NXB Giáo dục.