Lý tưởng, khát vọng của Phạm
Ngũ Lão trong bài thơ Thuật hoài
“Trai thời loạn”, thành ngữ dân gian ấy không biết có từ bao giờ. Có lẽ
có khi từ lúc “dân mình biết trồng tre mà
đánh giặc”(Nguyễn Khoa Điềm). Đó là ý thức về đóng góp của mỗi thành viên
trong cộng đồng dân tộc. Và thời Trần, thời đại anh hùng sản sinh ra những anh
hùng. Thời đại đã hun đúc nên những nhân vật kì vĩ. Danh tướng Phạm Ngũ Lão là
sản phẩm của hào khí Đông A. Ông vốn xuất thân từ tầng lớp bình dân. Tài năng
cùng với lý tưởng yêu nước sáng ngời của ông đã tạo nên một con người Việt Nam
ưu tú trong lịch sử: Phạm Ngũ Lão văn võ toàn tài: Tài võ ông đem hiến dâng cho
sự nghiệp cứu nước. Tài văn ông dùng để làm thơ bày tỏ nỗi lòng của mình với
bè bạn, với hậu thế và trước hết là tự nói với mình về ý thức trách nhiệm thiêng
liêng, nghĩa vụ cao cả với Tổ quốc yêu quý. “Thuật hoài” chính là tiếng nói của một trái tim yêu nước thiết
tha. Qua tiếng nói ấy, người đời được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của trang nam nhi yêu
nước thời Trần
Phạm
Ngũ Lão đã chọn thể thơ tứ tuyệt Đường luật để bày tỏ khát vọng và hoài bão của
mình. Đây là thể thơ rất hàm súc, rất ít lời mà có sức gợi lớn, ý tứ sâu xa,
phù hợp với cách nói chắc nịch của một vị tướng vẫy vùng nơi trận mạc. Nhân vật
trữ tình bày tỏ lòng mình qua hình tượng kỳ vĩ.
Câu khai của bài thơ tứ tuyệt
đã mở ra hình ảnh một đấng nam nhi với tư thế hiên ngang, mang tầm vóc vũ trụ,
hành động kỳ vĩ
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Người
tráng sĩ không múa giáo mà cầm ngang ngọn giáo. Hai từ múa giáo trong lời dịch
thơ chưa thể hiện được hai từ hoành sóc của câu thơ nguyên tác. Múa giáo có gì
đó pha chút phô trương, biểu diễn hoặc nếu không dễ làm ta liên tưởng đến một
trình độ thuần thục của nghề cung kiếm trong thao tác thực hành. Và như vậy nó
làm mất đi cái cường độ nội sinh, nội lục. Người bản lĩnh cao không bao giờ tỏ
ra trong cái hình thức bên ngoài như thế. Ở đây người tráng sĩ cầm ngang ngọn
giáo (hoành sóc). Trong câu thơ nguyên tác, tác giả dựng lên hình ảnh người
tráng sĩ ở một tư thế tĩnh chứ không động. Tư thế ấy như dồn nén sức mạnh để để
bùng nổ.Tầm nhìn của tráng sĩ bao quát cả giang sơn. “Giang sơn” là từ chỉ đất nước. Nó vừa diễn tả không gian mang sắc
thái vũ trụ, vừa để diễn tả một ý niệm cụ thể là đất nước. Khi nói đến giang
sơn thường có một sự liên tưởng đến bộ ba khái niệm”thiên, địa, nhân” (trời, đất, người), tức là thuyết tam tài, diễn tả
ý niệm về tầm quan trọng của con người trong vũ trụ. Con người sánh ngang với
trời đất, có trách nhiệm to lớn đối với thế giới. Vì vậy ở đây người tráng sĩ
đã thể hiện tư thế và tầm nhìn của người chủ động canh giữ giang sơn quý báu của
mình, sẵn sàng đón đánh quân cướp nước. Vậy, cái chí bình sinh thời loạn đã
nâng cấp ngọn giáo thông thường lên tầm trách nhiệm với nước, với đời. Ngọn
giáo ấy là non sông đã giao trách nhiệm ngàn cân mà người tráng sĩ không thể
không làm tròn. Ngọn giáo cầm trong tay tráng sĩ như đo chiều rộng, chiều dài của
Tổ quốc sẵn sàng bảo vệ, giữ gìn từng tất đất của quê hương, không thể cho quân
giặc tàn phá, giày xéo. Khát vọng bảo vệ Tổ quốc dồn vào đôi cánh tay tráng sĩ
đang chắc trong tay cầm ngang ngọn giáo, bất chấp cả thời gian trôi qua. Thực tế
Phạm Ngũ Lão cầm quân giữ các cửa ải phía bắc từ cuối năm 1282 đến năm 1285 khi
quân Mông- Nguyên kéo vào xâm lược nước ta. Thời gian ấy đúng là đã mấy thu (kháp kỉ thu). Người tráng sĩ ấy
đã dạn dày dày sương gió, đã từng đối mặt với kẻ thù, bất chấp mọi nguy hiểm
gian nan. Dù thời gian khiến nhiều việc đổi thay, duy nhất có khát vọng gìn giữ
giang sơn là không hề thay đổi trong tấm lòng của trang nam nhi đất Việt
Câu khai đã làm trọn chức năng mở ra và đã hé mở tấm lòng son sắt của
Phạm Ngũ Lão đối với quê hương đất nước. Từ thế của nhân vật trữ tình hiện lên
thật hiên ngang lẫm liệt nhưng giọng điệu câu thơ lại bình tĩnh, khiêm nhường, ẩn
chứa một sức mạnh tiềm tàng. Một ý chí sắt đá không gì thay đổi. Đi cứu nước là
niềm tự hào, kiêu hãnh, niềm hạnh phúc lớn lao của trang nam nhi thời Trần.
Tướng thì phải có quân, tướng
nào quân nấy. Người tráng sĩ đang sát cánh cùng ba quân với khí thế ngất trời.
Dường như chí lớn của Phạm Ngũ Lão như đã truyền tới ba quân một năng lượng
tinh thần, nhạy và nhanh để để kết thành một khối. Còn hơn thế, như người giữ lửa,
truyền lửa độ sáng và độ ấm không hề dừng lại mà cứ lớn dần lên. Mỗi khi Tổ quốc
bị xâm lăng, lòng yêu nước lại sôi nổi, cả dân tộc kết thành một khối sức mạnh
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Thủ pháp so sánh và phóng đại
được tạo dựng trong câu thừa. Ngoài ra câu thơ còn tạo được một ấn tượng mạnh bởi
sự kết hợp giữa hình ảnh khác quan và cảm nhận chủ quan, giữa hiện thực và lãng
mạn. Tam quân ở đây mạnh như hổ báo thì sẽ đánh đâu thắng đấy, xứng đáng là nềm
tin cậy của non sông. Đội quân anh hùng ấy cùng với cả nước sẽ đánh tan quân
xâm lược nhà nghề hung hãn bậc nhất thế giới bấy giờ. Thực tế ba quân như hổ
báo ấy đã ba lần xé xác, nuốt trôi đội quân trâu điên hung hãn. Sau này, một
nhà thơ của sứ giả thiên triều Nguyên là Trần Phu viết phần nào ghi lại tâm trạng
sợ hãi của quân xâm lược khi đến nước ta
Kim qua ảnh lí đan tâm khổ
Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh
(Trong
bóng lòe của binh khí long son cay đắng
Giữa
tiếng rộn của trống đồng tóc bạc mọc ra)
Chính
những con người với những phẩm chất anh hùng như Phạm Ngũ Lão đã làm nên hào
khí Đông A chói lọi đó.
Thật
sảng khoái tự hào biết mấy khi hai câu thơ gieo trồng trên một mảnh đất dường
như không một lúc nào bình yên. Sinh vào thời Trần, ai cũng có cơ hội trở thành
anh hùng. Đâu chỉ một lần Trần Quốc Tuấn đêm quên ngủ, ngày quên ăn chỉ với một
nguyện vọng là được xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Đó là sáu chữ
vàng được thêu trên lá cờ của người thiếu niên Trần Quốc Toản. Đó là việc khắc
tay binh sĩ hai chữ Sát Thát… Cả một không gian trận mạc lở đất rung trời. Hào
khí Đông A trong thơ Phạm Ngũ Lão hào hùng trong bối cảnh ấy. Nó bắt nhịp được
bước đi của thời đại, của dân tộc trong những giờ phút lâm nguy.
Câu
thừa nâng cao, phát triển ý câu khai,
tiếp tục cảm hứng tỏ lòng của danh tướng Phạm Ngũ Lão.
Cái
lý tưởng sống của Phạm Ngũ Lão còn được thể hiện ở hoài bão, ý thức của bậc
nam nhi với việc lập công danh để đời. Đó là nỗi lòng với cái chí và tâm lớn
lao cao cả của người anh hùng.
Trong
một bài thơ tứ tuyệt Đường luật thì câu chuyển có vị trí then chốt, có khi làm
chuyển cả ý thơ, chuyển cả dạng cảm xúc. Phạm Ngũ Lão đã dùng câu thơ quan trọng
này để chuyển sang nói về hoài bão và lý tưởng của mình.
Nam nhi vị liễu công danh trái
Theo
quan niệm Nho giáo phong kiến, làm trai trên đời phải có công danh sự nghiệp,
cũng là để chứng tỏ cái chí của người quân tử, muốn được góp sức với đời góp
công với nước. Có như vậy mới thỏa nguyện chí làm trai và làm vẻ vang cho cha mẹ,
gia tộc. Theo sách Kinh lễ, nhà quý tộc khi sanh con trai thì lấy cung bằng gỗ
dâu, tên bằng cỏ bồng bắn bốn phát tên
ra bốn phương, ngụ ý làm trai co chí khí tung hoành ngang dọc bốn phương trời đất.
Lý tưởng của chí làm trai ấy trong thời gian khá dài đã phát huy tích cực. Bao
trí thức Nho gia đất Việt, các thế hệ đã sống say mê mãnh liệt với lý tưởng ấy
và lưu danh muôn đời với sự nghiệp lớn lao cho đất nước, cho xã hội. Đó là một
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cao Bá Quát, đặc biệt là Nguyễn Công Trứ
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh
gì với núi sông
Điều
đáng nói ở đây là Phạm Ngũ Lão đã gắn chí nam nhi với lý tưởng yêu nước thiêng
liêng, với sự nghiệp cứu nước gian khổ mà cực kì vẻ vang. Đặt trong hoàn cảnh đất
nước lúc bấy giờ, chí làm trai của Phạm Ngũ Lão trong bài thơ có tác dụng to lớn
đôi với con người và xã hội, nó cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích
kỉ, sẵn sàng hi sinh, chiến đấu cho sự nghiệp cứu nước.
Câu chuyển vang lên lên như một tuyên ngôn về cách sống anh hùng: Ai muốn
sáng thì phải cháy lên!
Nhưng
tướng quân Phạm Ngũ Lão, khát vọng hiến dâng còn mãnh liệt vô cùng, hầu như
không có giới hạn. Cái tốt đẹp không bao giờ có điểm tận cùng. Phạm Ngũ Lão đã
thể hiện khát vọng ước mơ, hoài bão mãnh liệt trong lòng ở câu hợp.
Tu thính dân gian thuyết Vũ hầu
Xuất
hiện trong lòng vị danh tướng một nỗi thẹn. Suốt cuộc đời, Phạm Ngũ Lão không
làm điều gì để phải thẹn với dân, với nước, với chính mình, Nói thẹn là là cách
nói khiêm nhường, một cách thể hiện khát vọng, hoài bão mãnh liệt trong lòng. Mẫu
nam nhi lý tưởng theo Phạm Ngũ Lão là người có tài mưu lược, có nhiều công trạng
như Vũ hầu Gia Cát Lượng. Nỗi thẹn ấy không làm cho con người nhỏ bé đi mà nó
tôn cao nhân cách con người. Nỗi thẹn ấy đốt lên trong lòng người ngọn lửa của
khát vọng vươn tới cái cao cả lớn lao. Ở một khía cạnh khác, cách nói đó lại là
sự khẳng định đề cao đề cao ý thức trách nhiệm của Phạm Ngũ Lão với đất nước, với
nhân dân. Câu thơ hợp đã để lại biết bao suy ngẫm cho người đọc.
Thuật hoài là lời tỏ lòng riêng của Phạm Ngũ Lão, là tiếng nói của
một trái tim yêu nước mãnh liệt, thiết tha. Nhưng trong bài thơ không thấy có một
đại từ nhân xưng nào. Chủ thể trữ tình ẩn dưới danh từ chung “nam nhi” nhắc đến “tam quân tì hổ” đông đảo, hùng hậu. Vì vậy, bài thơ bộc lộ khát vọng
của tác giả, vừa bày tỏ trách nhiệm đối với Tổ quốc, tình cảm, ý chí, khí phách
của quân dân đời Trần. Cái hay của bài thơ này còn ở độ súc tích cao theo hướng
“quý hồ tinh bất quý hồ đa” trong nghệ thuật văn học trung đại. Hình thức kết
cấu theo nguyên tắc “ tức cảnh sinh tình”,
nó được triển khai tứ bằng cách đi từ hiện thực, chọn những hiện tượng có thực
tiêu biểu để dẫn dắt đến chỗ bộc lộ nhũng cảm xúc nội tâm sâu kín để bày tỏ tấm
lòng yêu nước của tác giả và con người. Đó là “hào khí Đông A”, là cảm hứng yêu nước trong thơ lúc bấy giờ.
Người viết: Võ Văn Điệp
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóahay à nha =)
Trả lờiXóaNhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóahay rat co ich
Trả lờiXóaRất hay!!!
Trả lờiXóagood
Trả lờiXóaHay quá
Trả lờiXóatạm đc
Trả lờiXóaDài vậy trời
Trả lờiXóa